mercredi 25 mai 2011

Bài học từ thất bại 800 triệu USD mang tên Pfizer

Sự thất bại thảm hại của phân tử torcetrapid mà Pfizer theo đuổi dường như có thể xóa sổ toàn bộ một nhóm thuốc mới có khả năng điều hòa cholesterol. Tuy nhiên mới tháng 4 vừa qua , Merck đã bắt đầu đưa hoạt chất anacetrapid của họ vào một trong những dự án nghiên cứu lâm sàng lớn nhất từ trước tới nay. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu xem làm sao các nhà bào chế có thể hồi phục lại hy vọng cho các phân tử thuộc nhóm ức chế CETP.

Ngày 2 tháng 12 năm 2006, Pfizer đã nhận được một kết quả tàn nhẫn : torcetrapib điều hòa cholesterol, dự án thuốc mới triển vọng nhất của họ trong ngắn hạn, đã làm tăng nguy cơ tử vong và tai biến tim mạch theo nghiên cứu chủ chốt ILLUMINATE vừa tiến hành. Công ty sau đó nhanh chóng ngưng phát triển hoạt chất ức chế CETP (cholesteryl ester transfer protein), đúng vào thời điểm đã đầu tư hơn 800 triệu USD vào dự án, và bất lực nhìn cổ phiếu của mình lao dốc trên thị trường.

Hãy cùng tìm hiểu về bối cảnh lúc đó. Pfizer, tập đoàn dược phẩm lớn nhất thế giới, luôn dẫn đầu trong thị trường thuốc hạ cholesterol nhờ vào sản phẩm bom tấn Lipitor của họ. Với việc Lipitor sẽ hết hạn bản quyền vào năm 2011, Pfizer là người dẫn đầu cuộc đua đưa nhóm ức chế CETP trở thành thị trường sẽ mang lại lợi nhuận khổng lồ trong thời gian ngắn sau khi lưu hành. Về cơ chế, nhóm thuốc mới này thực sự là đột phá. Trong khi các hoạt chất nhóm statin làm giảm nồng độ cholesterol “xấu” LDL, Torcetrapib làm tăng sự hiện diện các cholesterol “tốt” HDL. Vì vậy người ta có thể dùng chúng phối hợp với nhóm statin. Cùng với Pfizer, tham gia cuộc đua còn có khá nhiều các nhà bào chế khác. “Đó quả thật là một tin chấn động và gây nhiều bối rối”, Dan Bloomfield, người đứng đầu dự án CETP inhibitor của Merck với hoạt chất anacetrapib, nhớ lại. Nhiều người đã tự hỏi liệu thất bại này có đặt dấu chấm hết cho cả một phân nhóm hóa học nhiều triển vọng?

Nhiều công ty đã nối bước Pfizer cắt đứt toàn bộ đầu tư cho CETP inhibitor. Tuy nhiên, Roche với hoạt chất dalcetrapib và Merck thì vẫn muốn kiên trì. Một cách chậm rãi, họ và các nhà khoa học hàn lâm khác bắt đầu xây dựng lại niềm tin cho hướng tiếp cận tiềm năng. “tôi nghĩ chúng ta đang quay lại con đường”, theo lời Christ Cannon, bác sĩ tim mạch tại bệnh viện Brigham. Massachusetts, Mỹ, người đang thực hiện các thử nghiệm lâm sàng về anacetrapib nói. Doanh số bom tấn một lần nữa lại được dự đoán chỉ cách 2 ứng cử viên một lối rẽ.

Một điều tất yếu, những dự đoán đều phải được chứng minh bằng các hồ sơ, đó là dữ liệu thu được từ thử nghiệm lâm sàng. Roche, tại thời điểm quyết định, đã tiến hành nghiên cứu OUTCOMES trên 15,600 bệnh nhân vào năm 2008, và đang liệu trước kết quả vào đầu năm 2012. Cùng lúc đó, Merck cũng lên kế hoạch cho nghiên cứu REVEAL, với quy mô lên tới 30,000 người tham gia. Trong khi cả hai công ty đang chờ đợi xem cách tiếp cận khác nhau của họ sẽ diễn ra thế nào, tiến bộ mà họ đạt được đến thời điểm này đặt ra một câu hỏi lớn cho các nhà phát triển thuốc: Làm thế nào cứu vãn dược chất ứng viên của mình sau khi một phân tử tiềm năng cùng nhóm đã thất bại hoàn toàn?

Xuất phát sớm

CETP là một glycoprotein huyết tương có khả năng chuyển cholesteryl esters từ HDL cholesterol thành một dạng lipoprotein khác và trở thành LDL và VLDL. Việc ức chế các CETP này sẽ đưa đến kết quả làm tăng nồng độ của HDL – chất có thể chống xơ vữa. Do đó nó từ lâu đã được theo đuổi như là mục tiêu tiềm năng nghiên cứu thuốc xơ vữa động mạch. Hơn nữa, các CETP inhibitor có thể sẽ hữu dụng hơn khi phối hợp với nhóm điều trị rất thành công hiện nay là statin, với cơ chế là hạ các cholesterol xấu LDL.

Bất chấp một vài lạc quan quá mức về torcetrapib của Pfizer, những cảnh báo đã được đưa ra trong giai đoạn sớm phát triển thuốc. Thật ngoài dự kiến, một dược phẩm được hy vọng sẽ cải thiện tình trạng sức khỏe tim mạch, lại cho thấy làm tăng huyết áp trong những thử nghiệm ban đầu. Các chuyên gia lúc đó tranh cãi rằng tác động nhỏ trên huyết áp của thuốc mới sẽ là yếu tố lâm sàng quan trọng khi so sánh với lợi ích của việc làm giảm cholesterol, điều này thúc đẩy Pfizer phải bước vào thử nghiệm ILLUMINATE đầy tốn kém. Tác dụng phụ trên huyết áp của torcetrapib tuy nhiên lại là cơ hội tốt cho Roche và Merck chứng tỏ được sự khác biệt của họ với sản phẩm của Pfizer.

“Từ bước khởi đầu thăm dò các phân tử mới, chúng tôi đã tiến hành sàng lọc các hợp chất làm ảnh hưởng huyết áp”, Bloomfield đã chia sẻ như thế, mặc dù không biết chính xác cơ chế và hậu quả tác động sau này. Thậm chí trước khi torcetrapib được công bố thất bại trong pha III, Merck cũng đã cố gắng tìm hiểu sự khác biệt sinh học giữa torcetrapib và anacetrapib. Vì thế, “dù bị sốc trước sự kết thúc sớm của ILLUMINATE, tôi thở sâu, và quyết định không nhảy vào con đường mà mọi người đã làm là muốn kết thúc việc nghiên cứu các phân tử CETP inhibitor”. Thay vào đó, Merck đẩy mạnh những nỗ lực tìm hiểu bản chất sinh học của CETP và làm chậm lại kế hoạch phát triển lâm sàng của mình. Chỉ 1 tháng sau khi ILLUMINATE bị đình trệ, trong một seri nghiên cứu được tiến hành trước khi họ chịu bỏ cuộc, Merck đã có những tiếp cận thận trọng cho thấy sự đảm bảo: nồng độ aldolsterol, một hormon sản sinh từ thận làm tăng huyết áp, tăng đáng kể trên những con thú được điều trị bằng torcetrapib, nhưng không trong trường hợp của anacetrapib.

“Aldolsterol thực sự là một tác nhân xấu, nó gây ra nhiều phản ứng rất có hại cho sức khỏe. Loại trừ được nó là một bước quan trọng để chúng tôi tiến về phía trước”. Trong các thử nghiệm tiếp theo họ chứng tỏ được rằng có thể loại trừ khả năng tăng huyết áp của torcetrapib bằng cách cắt bỏ tuyến thượng thận của chuột thử nghiệm, từ đó chứng minh được tầm quan trọng của aldolsterol, cũng như tính an toàn đầy hứa hẹn của anacetrapib. (Br. J. Pharmacol. 154, 1465–1472; 2008)

Những nghiên cứu khác về bản chất sinh học của việc ức chế CETP tiếp tục ủng hộ phân nhóm mới. Alan Tall và cộng sự tại Merck đã chứng minh được các phân tử HDL tăng lên nhờ anacetrapib có tính chất kháng viêm và tuôn chảy tương tự như HDL tự nhiên, xoa dịu được những lo lắng rằng ức chế CETP sẽ tạo ra các phần tử bất thường làm xơ vữa động mạch. (Arterioscler. Thromb. Vasc. Biol. 30, 1430–1438; 2010).

“Điều cơ bản tôi học được ở đây là tầm quan trọng của việc phát triển thuốc dựa vào nền tảng khoa học tốt”. Bloomfield chia sẻ, “bạn cần làm khoa học đúng đắn để đứng vững trước những tin xấu đến từ những công ty khác

Bám vào khoa học

Theo Bruce Littman, chủ tịch hiệp hội Translational Medicine, câu chuyện của torcetrapib còn chỉ ra một bài học đắt giá khác. “Khi xuất hiện một vấn đề liên quan đến cơ chế, đặc biệt là về vấn đề an toàn, đừng cho rằng những gì bạn thấy được là rủi ro duy nhất”. Trong trường hợp này, sự gia tăng nhẹ huyết áp chỉ là biểu hiện của một hiện tượng sinh học tồi tệ hơn mà chúng ta không thể bỏ qua.

Chưa hết, Littman nói, quyết định đưa torcetrapib vào pha III lâm sàng được chấp rộng rãi vào lúc đó. Trong nội bộ công ty, quyết định này bị dẫn dắt một phần bởi lợi ích thương mại. Pfizer đã tính toán trước sự sụt giảm doanh thu khi Lipitor hết hạn bảo hộ bản quyền trong năm 2011, và công ty cần một blockbuster khác để bù đắp lại doanh thu. Khi torcetrapib bước vào giai đoạn thử lâm sàng, nó trở thành điềm báo sẽ là phao cứu sinh cho tập đoàn và tâm lý đám đông lúc đó cảm thấy cần loại bỏ khoa học sang một bên. Vì vậy, Pfizer tiếp tục với torcetrapib - thay vì chuyển sang hợp chất dự phòng của mình mà không làm tăng huyết áp – chủ yếu là vì nó đã được phát triển quá nhiều và đủ xa để chuẩn bị thay thế cho atorvastatin. “Khi bạn để lợi ích thương mại lấn át khoa học, đồng nghĩa với việc bạn đang mang theo một rủi ro rất lớn”, Littman nhấn mạnh.

Trong trường hợp của CETP inhibitor, yếu tố lợi nhuận là động lực khá mạnh. Các nhà phân tích đã dự đoán doanh số hàng năm của torcetrapib có thể lên đến 10 tỷ USD. Với việc ngày càng ít thuốc bom tấn ra đời trong tương lai, Littman chỉ ra rằng có thể bối cảnh sẽ thay đổi: “khi thị trường trở nên kém lợi nhuận, tôi nghĩ rằng lúc đó khoa học sẽ lại lấn át các toan tính tiền bạc”.

Hai con đường

Một mặt, thử nghiệm in-vitro và in-vivo đều cho thấy torcetrapib gây ra những tác động có hại ngoài mục tiêu. Mặt khác, lại không có một bằng chứng nào mang tính kết luận những tác động này sẽ làm trầm trọng bệnh tim mạch và gia tăng tử vong. Sự song hành giữa rủi ro cao, thử nghiệm lâm sàng tốn kém và cơ hội chuyển đổi mô hình điều trị kèm với lợi nhuận khổng lồ luôn mang đến những quyết định khó khăn. “Câu hỏi chúng ta phải tự đặt ra là tiến hành những bước thận trọng ra sao để tiến lên?”

Thay vì trực tiếp đi thẳng vào nghiên cứu quy mô lớn – con đường duy nhất xác định chắc chắn tính hiệu quả và an toàn của CETP inhibitor, giải pháp của Merck là làm nghiên cứu DEFINE với quy mô chừng mực. “Khi bạn lo ngại một điều gì đó, bạn nên đi từng bước nhỏ”, Bloomfield nói. Bắt đầu vào tháng 4-2008, 1600 bệnh nhân mắc hoặc có nguy cơ cao mắc bệnh tim mạch được tuyển mộ vào dự án và phân loại ngẫu nhiên sử dụng anacetrapib hay giả dược (trong đó 99% cũng đang dùng statin).

Merck cũng ứng dụng một phương pháp phân tích đặc biệt để khai thác số lượng nhỏ các ca bệnh tim mạch được báo cáo trong quá trình thử nghiệm và tính toán xem anacetrapib có an toàn hơn torcetrapib hay không (torcetrapib cho thấy tăng 25% nguy cơ tim mạch). Kết quả, họ thấy 16 người bị tim mạch ở nhóm anacetrapib (2% bệnh nhân) so với 21 người ở nhóm placebo (2,6%), cung cấp 94% độ tin cậy rằng anacetrapib không nguy hiểm như torcetrapib. (N. Engl. J. Med. 363, 2406–2415; 2010).

Sự tiếp cận này mang nhiều ý nghĩa, mặc dù DEFINE chưa đủ quy mô để khẳng định chắc chắn về sự an toàn, nó cho phép Merck tinh chỉnh được xác suất an toàn của thuốc họ. Tập đoàn từ đó mới mạnh dạn triển khai dự án REVEAL với hơn 30,000 bệnh nhân. Kết quả sẽ có vào năm 2014 đến 2016. Ban đầu, Merck dự định thử nghiệm pha III vào 2007, điều đó có nghĩa việc thất bại của ILLUMINATE cũng đã làm kế hoạch của Merck bị dời lại 4 năm.

Roche thì ngược lại, họ vẫn muốn tiếp cận một cách trực diện. “Chúng tôi không nghĩ thất bại của torcetrapib sẽ làm chậm tiến trình của chúng tôi”. Theo David Kallen, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu toàn cầu về dalcetrapib của Roche. Họ đã triển khai dự án dal-OUTCOMES pha III với 15,600 bệnh nhân từ năm 2008. Đánh đổi với rủi ro cao còn phía trước, Roche sẽ thu thập được kết quả vào cuối năm 2012 đầu 2013. Mặc dù Merck có hướng đi khá thận trọng, Roche lại dựa vào các dấu hiệu thay thế, chẳng hạn như hình ảnh cộng hưởng từ để đo sự ổn định mảng bám đã cho phép Roche “loại trừ rủi ro trước khi tiến hành dal-OUTCOMES”. Cho đến nay vẫn chưa có lo ngại về an toàn nào được lưu ý bởi Hội đồng Giám sát dữ liệu và an toàn, những người luôn giám sát nghiên cứu của Roche một cách nghiêm ngặt.

Kallend chỉ ra một yếu tố khác biệt chính mà ông cho rằng đã dẫn đến sự khác nhau giữa chương trình của hai tập đoàn: đó là cấu trúc của hai phân tử. “Vì anacetrapib có cấu trúc gần giống với torcetrapib hơn là dalcetrapib, nên họ chắc hẳn phải có nhiều việc để làm hơn”. Torcetrapib cũng có tiềm lực mạnh hơn dalcetrapib. Bloomfield tranh luận, tuy nhiên, cách tiếp cận của Merck bảo thủ hơn vì những lý do chính: “Chúng tôi không hoàn toàn chắc chắn rằng những tác động của torcetrapib có liên quan đến một tác dụng ngoài mục tiêu”

Sau cùng, cả hai hướng tiếp cận đều có lý do riêng. Việc cả hai thậm chí còn đưa được phân tử của họ vào thử nghiệm lâm sàng cho thấy một bài học đáng giá: “Chỉ vì một phân tử cùng nhóm bị thất bại, không nhất thiết phải loại bỏ hoàn toàn con đường đó. Chúng ta cần phải thận trọng tối đa khi quyết định từ bỏ con đường mà ta đã chọn”.

nature.com

samedi 21 mai 2011

Dược sĩ và nghề phóng viên

Giữa áo blouse và ngòi bút, bạn yêu thích cái nào hơn? Bạn có phải là người ham muốn chia sẻ kiến thức, truyền tải cho cộng đồng hay các đồng nghiệp thông tin về lĩnh vực y dược? Nếu đúng, hãy tự tin vì một dược sĩ hoàn toàn phù hợp để trở thành phóng viên khoa học.



Trong thực tế, việc sở hữu một nền kiến thức vững chắc về khoa học / y học là chìa khóa quan trọng để bạn có thể hiểu, diễn đạt và truyền tải thông tin y tế cho những người xung quanh. Vì vậy, một cách tự nhiên, các dược sĩ có thể tìm thấy chỗ đứng của mình trong số biên tập viên của những tạp chí chuyên ngành. Một hướng đi khác phổ biến hơn, là phụ trách chuyên mục “sức khỏe” của các tờ nhật báo lớn, nơi bạn có cơ hội phổ cập kiến thức về bệnh và chăm sóc sức khỏe cho công chúng.

Để đào tạo những người phù hợp với ngành nghề này, Học viện báo chí Lille, một ngôi trường khá uy tín vừa hợp tác với đại học Lille 1 mở một chương trình giảng dạy cho phép học viên có bằng Master 2 về Dịch tễ học, kèm với một chứng chỉ chuyên môn về “báo chí và khoa học”. Tất cả những học viên có bằng master 1 khoa học đều có thể đăng ký.

Các trường đại học ở Paris Diderot, Aix-Marseille, Bordeaux, Grenoble và Strasbourg cũng cung cấp các lớp Master mang tên “Truyền thông trong khoa học” mà một phần chỉ tiêu hàng năm dành cho đạo tạo các phóng viên khoa học.

Giống như tất cả các master khác, những chương trình này yêu cầu sinh viên phải kết thúc bằng một đợt thực tập 6 tháng trong một công ty xuất bản, nơi bạn có thể sử dụng ngòi bút của mình (chính xác hơn là bàn phím của mình ^^ ) để tham gia vào đội ngũ hàng ngày diễn giải những từ ngữ khô khan, máy móc trong y học cho cộng đồng, hoặc cập nhật thêm thông tin khoa học đến các đồng nghiệp của mình.

Trong thời đại ngày nay, khi mà người ta nhận thấy có đến một phần năm cư dân Internet truy cập vào trang Doctissimo (một trang web về thuốc nổi tiếng của Pháp) ít nhất một lần trong tháng, và trang này vừa thống kê đã đạt 32 triệu lượt truy cập mỗi tháng, hơn bao giờ hết chúng ta cần những thông tin y dược, sức khỏe được đăng tải trên Internet phải thật rõ ràng, khách quan và chính xác bởi những chuyên gia trong ngành.

supergelule.fr

mardi 17 mai 2011

Sanofi cho ra đời logo mới



Ngày 6 tháng 5 vừa qua, các cổ đông của tập đoàn dược phẩm Sanofi-Aventis đã chấp thuận quyết định rút ngắn tên công ty thành Sanofi. Cùng lúc đó công ty đã giới thiệu và đưa ra một logo mới.

Sanofi-Aventis được thành lập vào năm 2004 khi Sanofi-Synthelabo mua lại Aventis. Cả hai công ty trước đó cũng đã được hình thành bởi các thương vụ M&A vào năm 1999, do đó, có thể nói đây là sự sáp nhập đầu tiên các đặc điểm nhận dạng cho công ty (tên và logo) sau một thời gian khá lâu. Sanofi-Synthelabo được tạo ra bởi Sanofi Elf và L'Oreal Synthelabo, trong khi Aventis đã được hình thành từ Hoechst của Đức và Rhône-Poulenc Pháp. Tên rút gọn với cấu trúc phụ âm - nguyên âm, phụ âm - nguyên âm sẽ dễ dàng hơn khi phát âm bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau.

Logo mới bao gồm một biểu tượng mới, mang tên là "Bird of Hope", tượng trưng cho những hy vọng mà sản phẩm của công ty mang đến cho các bệnh nhân đang trông đợi vào họ. Biểu tượng được tạo thành từ ba mảnh cách điệu hình thành nên một con chim. Những màu sắc được sử dụng là màu xanh của nước, xanh lá cây cho trái đất, màu đất sét cho lửa và trắng cho không khí.

Logo gần đây nhất của Sanofi

Còn nhớ biểu tượng của Sanofi-aventis được cho ra đời từ năm 2004 là 3 con người đứng xung quanh một trái tim. Biểu tượng dễ thương này đã bị dỡ bỏ vào năm 2009



logo của Sanofi synthelabo


logo của Aventis

brandingsource.blogspot.com

lundi 16 mai 2011

Các thuốc có doanh số cao nhất tại Mỹ



Vào tháng 4/2011, IMS Health đã công bố những số liệu đầu tiên trong năm liên quan đến thị trường dược phẩm Mỹ.

Dưới đây là bảng danh sách các thuốc đang dẫn đầu doanh số tại Mỹ qua các năm từ 2006 đến 2010

1- Lipitor (Pfizer), 2- Nexium (AstraZeneca), 3- Plavix (Sanofi-aventis, Bristol-Myers Squibb BMS), 4- Advair Diskus (GSK GlaxoSmithKline), 5- Abilify (Bristol-Myers Squibb BMS, Otsuka America Pharmaceutical), 6- Seroquel (AstraZeneca), 7- Singulair (Merck & Co.), 8- Crestor (AstraZeneca), 9- Actos ( Takeda), 10- Epogen (Amgen), 11- Remicade (Centocor Ortho Biotech, Johnson & Johnson JnJ), 12- Enbrel (Amgen, Pfizer), 13- Cymbalta (Eli Lilly), 14- Avastin (Genentech, Roche), 15- Oxycontin (Purdue Pharma), 16- Neulasta (Amgen), 17- Zyprexa (Eli Lilly), 18- Humira (Abbott), 19- Lexapro (Forest Laboratories), 20- Rituxan (Biogen Idec; Genentech, Roche)

dimanche 15 mai 2011

Vì sao một công ty mới start-up trong ngành dược phẩm cần phải tìm thị trường ngách?


Chỉ đơn giản là vì họ không thể cạnh tranh được với những tập đoàn dược phẩm lớn và có lịch sử lâu đời tại hầu hết các thị trường. Hãy xem ví dụ:

Khi một loại thuốc hết hạn bằng sáng chế, các công ty generic sẽ được phép bước vào thị trường với sản phẩm được chứng nhận tương đương sinh học với thuốc gốc. Thực vậy, rất nhiều sản phẩm chung chung sẽ xuất hiện trên thị trường, nếu như việc phát triển các sản phẩm generic đó khá đơn giản và dễ dàng, ví dụ như những loại viên nén phóng thích tức thời thông thường. Điển hình như viên Glucophage với dạng bào chế phóng thích nhanh, loại dược phẩm brandname này được cho ra mắt vào năm 1995 và doanh thu đã lên tới 1,7 tỷ USD trong năm 2001. Tuy nhiên, 15 loại thuốc generic cùng hoạt chất với Glucophage (metformin) đã được cấp phép khi phân tử này hết hạn bản quyền sáng chế. Kết quả, Glucophage gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt từ những loại thuốc copy này, doanh số của nó nhanh chóng sụt giảm chỉ còn 14 triệu USD trong nửa đầu năm 2002.

Những ví dụ khác : Lodine (13 phiên bản generic), Glucotrol (12 phiên bản generic) và Voltarel DR (13 phiên bản generic). Tất cả chúng đều được bào chế dưới dạng viên phóng thích tức thời.

Để chen chân vào những thị trường như vậy, một công ty cần có đội ngũ bán hàng và marketing hùng hậu, kèm theo khả năng sản xuất quy mô và hiệu quả (lợi thế kinh tế nhờ quy mô). Vì thế, đây không phải là sân chơi phù hợp cho các công ty dược mới start-up vốn không có nhiều chi phí cho việc marketing, cũng như quy mô sản xuất chưa lớn.

Do đó, một công ty mới khởi sự sẽ khôn ngoan hơn khi phát triển những sản phẩm generic công nghệ cao, dạng bào chế phức tạp mà không phải ai cũng bắt chước được, ví dụ như viên levothyroxine.

Một số ví dụ về thị trường ngách trong ngành:

Thị trường tiềm năng cho các thuốc có bản chất là protein:
Tại sao các loại thuốc đường uống không thể làm từ protein? Hiện nay, nó hứa hẹn là một thị trường to lớn cho các công ty dược, nếu như họ nắm bắt được công nghệ.

Các thuốc mồ côi:
Thuốc mồ côi là dược phẩm dùng để trị những bệnh mà chỉ có khoảng 200.000 người hoặc ít hơn trên thế giới mắc phải. Vì thị trường quá nhỏ nên việc đầu tư nghiên cứu cho chúng tỏ ra không hấp dẫn. Tuy nhiên, doanh thu đang tăng trưởng đáng kể, thuốc mồ côi đã đạt giá trị khoảng 43 tỷ USD trong 2008.

Các dược phẩm kém ổn định (ví dụ như levothyroxine):
Levothyroxine bị phân hủy nhanh chóng trong môi trường có độ ẩm cao, trong khi doanh thu của loại thuốc này xấp xỉ 1,2 tỷ USD trong năm 2002.

Mình thấy ở Việt Nam công ty Nanogen đang đi theo hướng này, các bạn nghĩ sao?

Sau đây là 1 case study về một công ty start-up đã tham gia thị trường:
Tìm ra cơ hội mới từ những phân tử lâu đời
zhion.com

samedi 14 mai 2011

Một chiến dịch truyền thông về thuốc giả: New York, Paris và ... Việt Nam

Fondation Chirac, một tổ chức châu Âu do cựu tổng thống Pháp thành lập để đấu tranh chống lại nạn thuốc giả, vừa thực hiện một chiến dịch truyền thông về vấn đề này, đặc biệt đề cập đến các loại thuốc được bày bán tràn lan trên internet. Trong đoạn video clip được đăng lên Youtube, thông điệp truyền tải khá ngắn gọn nhưng mang lại nhiều cảm xúc về hậu quả của việc mua thuốc kém chất lượng tại các trang web khả nghi. Một điểm đáng chú ý ở đây là ba thành phố được đề cập trong clip là New York, Paris và … thành phố Hồ Chí Minh. Điều đó thật đáng suy ngẫm.
Clip được thực hiện với sự hợp tác với Tổ chức thế giới về sở hữu trí tuệ, bộ ngoại giao Pháp và cơ quan phát triển quốc tế của Mỹ.



Lời nhắn nhủ của đoạn video là "Thuốc giả có thể gây chết người - bạn hãy luôn mua thuốc tại các hiệu thuốc đã được công nhận đủ tiêu chuẩn (GPP)"

các bạn quan tâm đến chủ đề này có thể xem thêm 1 clip của người Đức tại đây, với nội dung khá hóm hỉnh:

Counterfeit drugs on the Internet through the eyes of German pharmacists

vendredi 13 mai 2011

Roche mở rộng liệu pháp “cá nhân hóa điều trị” cho bệnh viêm khớp dạng thấp.


Là nhà tiên phong về phương pháp “cá nhân hóa điều trị” trong bệnh ung thư, ngày nay Roche đã tiến thêm một bước phát triển xu hướng y học mới này cho các lĩnh vực khác, đặc biệt là trong bệnh viêm khớp.

Hai bộ phận Dược phẩm và Chẩn đoán thuộc chi nhánh Roche tại Pháp vừa tổ chức ở Paris một ngày chuyên đề mang tên “Những dấu ấn – Empreintes”. Nội dung bao gồm các hội thảo khoa học về đề tài cá nhân hóa trị liệu, lĩnh vực mà Roche luôn dẫn đầu kể từ khi họ cho ra đời Herceptin ® (trastuzumab) cho bệnh ung thư vú kèm theo một hồ sơ di truyền cụ thể. Với thế mạnh kép trong lĩnh vực dược phẩm và kỹ thuật chẩn đoán, mục đích của Roche muốn mở rộng phương pháp áp dụng cho các căn bệnh khác cùng có nguyên nhân di truyền. Vì vậy, nội dung chính của ngày chuyên đề “Những dấu ấn” không phải xoay quanh bệnh ung thư mà là các ứng dụng trong điều trị viêm khớp.

Nhiều vũ khí mới trong điều trị đang được phát triển


Hiện nay trên thị trường Roche đang sở hữu một loại kháng thể đơn dòng có khả năng chống lại các tế bào lymphocyte B, MAbthera® (rituximab) chỉ định cho bệnh viêm khớp dạng thấp kết hợp với methotrexat, loại thuốc vẫn là lựa chọn đầu tiên cho phác đồ bệnh. Mabthera là loại thuốc có nhiều chỉ định được phép trong liệu pháp sinh học. một lĩnh vực mà các bác sĩ thường hay gặp khó khăn khi chọn lựa thuốc cho bệnh nhân. “trong những năm sắp tới, chúng ta sẽ có nhiều hơn nữa các vũ khí điều trị viêm khớp dạng thấp”, theo ý kiến của Dr Philippe Gaudin, trưởng khoa khớp của bệnh viện Grenoble, “tuy nhiên, khó khăn gặp phải chính là thiếu công cụ xác định xem bệnh nhân của mình sẽ đáp ứng hay không với những liệu pháp mới đó”

Thêm nhiều dấu ấn sinh học được xác định và đưa vào ứng dụng

Một trở ngại mà Roche đang muốn vượt qua là cố gắng xác định những yếu tố giúp dự đoán hiệu quả điều trị của rituximab trên bệnh nhân. Với nghiên cứu SMART (1) mà các dữ liệu vừa được công bố trên báo chí, họ muốn chứng minh sự liên quan giữa một vài dấu ấn cụ thể trong bệnh thấp khớp và MAbthera® để điều trị bệnh lý này. Như vậy, sự kết hợp cùng lúc hai dấu ấn sinh học sẽ tương ứng với tỷ lệ thành công trên lâm sàng lên tới 85% (2), đối với những bệnh nhân đã từng gặp thất bại khi điều trị cũng như những bệnh nhân không dung nạp với các hoạt chất kháng TNF. Theo Roche, đây có thể coi như những bước đi đầu tiên để định hình chiến lược ứng dụng “cá nhân hóa điều trị” trong bệnh lý viêm khớp dạng thấp.

(1) Các dấu ấn sinh học kích hoạt Lymphocyte B như là những yếu tố chẩn đoán khả năng đáp ứng với rituximab trong bệnh viêm khớp dạng thấp: Một nghiên cứu 6 tháng, tầm quốc gia, đa trung tâm, open-label. Được đăng trên số tháng tư của tạp chí Arthritis & Rheumatism.

(2) Ngoài các chỉ dấu sinh học thông thường được sử dụng trong chẩn đoán bệnh (các kháng thể viêm khớp dạng thấp và anti-CPP), Roche còn nghiên cứu các giá trị chẩn đoán của những biomarker kích hoạt các tế bào B này - những tế bào mục tiêu cụ thể của rituximab.

pharmaceutiques.com

lundi 9 mai 2011

Mua lại Cephalon, Teva muốn đặt cược nhiều hơn vào các thuốc thương hiệu và nghiên cứu phát triển



Không chỉ sở trường với các mặt hàng generics và những hợp đồng sản xuất nhượng quyền, Teva còn tiếp tục chiến lược mở rộng tập đoàn thông qua việc mua lại Cephalon với trị giá 6,8 tỷ USD.


Thỏa thuận đạt được dự kiến sẽ thúc đẩy tổng giá trị mà danh mục thuốc Teva hiện có lên 7 tỷ USD mỗi năm, biến công ty “không chỉ trở thành nhà bào chế generic lớn nhất thế giới, mà cũng là một hãng dược hàng đầu về nghiên cứu các loại thuốc chuyên khoa”, theo Shlomo Yanai, CEO của Teva cho biết. Sau khi hoàn tất việc mua lại, Teva có thể hãnh diện với “hơn 30 loại thuốc mới đang nghiên cứu trong giai đoạn cuối, trong đó 3 loại đã được nộp đơn và chờ xem xét”.

Ngày nay, các tập đoàn lớn đang cắt giảm bộ phận R&D của mình nhằm thoát khỏi những khó khăn và chi phí đắt đỏ khi muốn đưa một loại thuốc mới ra thị trường, họ ngày càng giảm sự hào hứng trong việc đặt cược tiền đầu tư của mình vào một chuyến phiêu lưu mà phải mất đến gần một thập kỷ sau mới biết được kết quả. Chiến lược ưa thích hơn hiện nay là “nhường” cho các công ty mới nổi, quy mô nhỏ những rủi ro, khó khăn khi nghiên cứu phát triển các phân tử mới trong giai đoạn đầu. Một khi các hoạt chất này tỏ ra có hiệu quả trên lâm sàng, và đủ khả năng được cấp giấy phép, các tập đoàn dược phẩm sẽ thâu tóm lấy chúng. Valeant, một tập đoàn dược phẩm lớn của Canada, cũng đã từng đưa ra lời đề nghị mua lại Cephalon, nhưng thất bại.

Với thành công trong thương vụ này, Teva tuyên bố họ muốn đầu tư nhiều hơn vào nghiên cứu phát triển, “xác định những phân tử tiềm năng trong giai đoạn nghiên cứu thăm dò, sau đó dẫn dắt chúng vượt qua toàn bộ con đường phát triển để cuối cùng lưu hành ra thị trường”, theo lời của Yanai. Hiện nay, Teva có 2 nhãn hiệu hàng đầu trên thị trường, Copaxone (bệnh đa xơ cứng mô mềm) và Azilect (bệnh Parkinson). Copaxone có doanh thu 938 triệu USD trong 2010, chiếm 18% tổng doanh thu của tập đoàn, còn Azilect thì đạt doanh số là 89 triệu USD. Đối với Cephalon, sản phẩm best-selling của họ là Provigil (được chỉ định chữa những cơn buồn ngủ quá mức liên quan đến hội chứng ngủ lịm – narcolepsy) , sản phẩm này chiếm 41% doanh số của Cephalon, nhưng dự kiến sẽ phải đối mặt với hàng generic trong năm 2012. Sau khi kết hợp, tập đoàn mới sẽ có đến 20 loại brand drugs trên thị trường.

Cephalon sẽ bổ sung cho Teva nhiều lĩnh vực điều trị mới, đặc biệt là trong việc kiểm soát đau và ung thư, cũng như tăng thị phần của Teva tại Châu Âu, Châu Á và Mỹ Latin. Thỏa thuận cũng sẽ tạo ra một sự hiệp đồng về sale và marketing, dù vẫn còn quá sớm để đánh giá được hiệu quả của sự hiệp đồng này. Với Cephalon, mảng kinh doanh generic của riêng họ, với đại diện là Mepha, cũng đạt doanh thu 400 triệu USD trong năm qua.

Tháng 3 vừa qua, Teva đã kí một thỏa thuận với nhà khổng lồ Procter & Gamble (P&G) trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, nhằm tận dụng mạng lưới bán lẻ rộng khắp của tập đoàn này kết hợp với các mặt hàng thuốc OTC của công ty. Quan hệ đối tác sẽ giúp cả hai bao gồm được mọi thị trường bên ngoài nước Mỹ và có giá trị khoảng 1 tỷ USD.

pharmexec.com