dimanche 15 mai 2011

Vì sao một công ty mới start-up trong ngành dược phẩm cần phải tìm thị trường ngách?


Chỉ đơn giản là vì họ không thể cạnh tranh được với những tập đoàn dược phẩm lớn và có lịch sử lâu đời tại hầu hết các thị trường. Hãy xem ví dụ:

Khi một loại thuốc hết hạn bằng sáng chế, các công ty generic sẽ được phép bước vào thị trường với sản phẩm được chứng nhận tương đương sinh học với thuốc gốc. Thực vậy, rất nhiều sản phẩm chung chung sẽ xuất hiện trên thị trường, nếu như việc phát triển các sản phẩm generic đó khá đơn giản và dễ dàng, ví dụ như những loại viên nén phóng thích tức thời thông thường. Điển hình như viên Glucophage với dạng bào chế phóng thích nhanh, loại dược phẩm brandname này được cho ra mắt vào năm 1995 và doanh thu đã lên tới 1,7 tỷ USD trong năm 2001. Tuy nhiên, 15 loại thuốc generic cùng hoạt chất với Glucophage (metformin) đã được cấp phép khi phân tử này hết hạn bản quyền sáng chế. Kết quả, Glucophage gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt từ những loại thuốc copy này, doanh số của nó nhanh chóng sụt giảm chỉ còn 14 triệu USD trong nửa đầu năm 2002.

Những ví dụ khác : Lodine (13 phiên bản generic), Glucotrol (12 phiên bản generic) và Voltarel DR (13 phiên bản generic). Tất cả chúng đều được bào chế dưới dạng viên phóng thích tức thời.

Để chen chân vào những thị trường như vậy, một công ty cần có đội ngũ bán hàng và marketing hùng hậu, kèm theo khả năng sản xuất quy mô và hiệu quả (lợi thế kinh tế nhờ quy mô). Vì thế, đây không phải là sân chơi phù hợp cho các công ty dược mới start-up vốn không có nhiều chi phí cho việc marketing, cũng như quy mô sản xuất chưa lớn.

Do đó, một công ty mới khởi sự sẽ khôn ngoan hơn khi phát triển những sản phẩm generic công nghệ cao, dạng bào chế phức tạp mà không phải ai cũng bắt chước được, ví dụ như viên levothyroxine.

Một số ví dụ về thị trường ngách trong ngành:

Thị trường tiềm năng cho các thuốc có bản chất là protein:
Tại sao các loại thuốc đường uống không thể làm từ protein? Hiện nay, nó hứa hẹn là một thị trường to lớn cho các công ty dược, nếu như họ nắm bắt được công nghệ.

Các thuốc mồ côi:
Thuốc mồ côi là dược phẩm dùng để trị những bệnh mà chỉ có khoảng 200.000 người hoặc ít hơn trên thế giới mắc phải. Vì thị trường quá nhỏ nên việc đầu tư nghiên cứu cho chúng tỏ ra không hấp dẫn. Tuy nhiên, doanh thu đang tăng trưởng đáng kể, thuốc mồ côi đã đạt giá trị khoảng 43 tỷ USD trong 2008.

Các dược phẩm kém ổn định (ví dụ như levothyroxine):
Levothyroxine bị phân hủy nhanh chóng trong môi trường có độ ẩm cao, trong khi doanh thu của loại thuốc này xấp xỉ 1,2 tỷ USD trong năm 2002.

Mình thấy ở Việt Nam công ty Nanogen đang đi theo hướng này, các bạn nghĩ sao?

Sau đây là 1 case study về một công ty start-up đã tham gia thị trường:
Tìm ra cơ hội mới từ những phân tử lâu đời
zhion.com

samedi 14 mai 2011

Một chiến dịch truyền thông về thuốc giả: New York, Paris và ... Việt Nam

Fondation Chirac, một tổ chức châu Âu do cựu tổng thống Pháp thành lập để đấu tranh chống lại nạn thuốc giả, vừa thực hiện một chiến dịch truyền thông về vấn đề này, đặc biệt đề cập đến các loại thuốc được bày bán tràn lan trên internet. Trong đoạn video clip được đăng lên Youtube, thông điệp truyền tải khá ngắn gọn nhưng mang lại nhiều cảm xúc về hậu quả của việc mua thuốc kém chất lượng tại các trang web khả nghi. Một điểm đáng chú ý ở đây là ba thành phố được đề cập trong clip là New York, Paris và … thành phố Hồ Chí Minh. Điều đó thật đáng suy ngẫm.
Clip được thực hiện với sự hợp tác với Tổ chức thế giới về sở hữu trí tuệ, bộ ngoại giao Pháp và cơ quan phát triển quốc tế của Mỹ.



Lời nhắn nhủ của đoạn video là "Thuốc giả có thể gây chết người - bạn hãy luôn mua thuốc tại các hiệu thuốc đã được công nhận đủ tiêu chuẩn (GPP)"

các bạn quan tâm đến chủ đề này có thể xem thêm 1 clip của người Đức tại đây, với nội dung khá hóm hỉnh:

Counterfeit drugs on the Internet through the eyes of German pharmacists

vendredi 13 mai 2011

Roche mở rộng liệu pháp “cá nhân hóa điều trị” cho bệnh viêm khớp dạng thấp.


Là nhà tiên phong về phương pháp “cá nhân hóa điều trị” trong bệnh ung thư, ngày nay Roche đã tiến thêm một bước phát triển xu hướng y học mới này cho các lĩnh vực khác, đặc biệt là trong bệnh viêm khớp.

Hai bộ phận Dược phẩm và Chẩn đoán thuộc chi nhánh Roche tại Pháp vừa tổ chức ở Paris một ngày chuyên đề mang tên “Những dấu ấn – Empreintes”. Nội dung bao gồm các hội thảo khoa học về đề tài cá nhân hóa trị liệu, lĩnh vực mà Roche luôn dẫn đầu kể từ khi họ cho ra đời Herceptin ® (trastuzumab) cho bệnh ung thư vú kèm theo một hồ sơ di truyền cụ thể. Với thế mạnh kép trong lĩnh vực dược phẩm và kỹ thuật chẩn đoán, mục đích của Roche muốn mở rộng phương pháp áp dụng cho các căn bệnh khác cùng có nguyên nhân di truyền. Vì vậy, nội dung chính của ngày chuyên đề “Những dấu ấn” không phải xoay quanh bệnh ung thư mà là các ứng dụng trong điều trị viêm khớp.

Nhiều vũ khí mới trong điều trị đang được phát triển


Hiện nay trên thị trường Roche đang sở hữu một loại kháng thể đơn dòng có khả năng chống lại các tế bào lymphocyte B, MAbthera® (rituximab) chỉ định cho bệnh viêm khớp dạng thấp kết hợp với methotrexat, loại thuốc vẫn là lựa chọn đầu tiên cho phác đồ bệnh. Mabthera là loại thuốc có nhiều chỉ định được phép trong liệu pháp sinh học. một lĩnh vực mà các bác sĩ thường hay gặp khó khăn khi chọn lựa thuốc cho bệnh nhân. “trong những năm sắp tới, chúng ta sẽ có nhiều hơn nữa các vũ khí điều trị viêm khớp dạng thấp”, theo ý kiến của Dr Philippe Gaudin, trưởng khoa khớp của bệnh viện Grenoble, “tuy nhiên, khó khăn gặp phải chính là thiếu công cụ xác định xem bệnh nhân của mình sẽ đáp ứng hay không với những liệu pháp mới đó”

Thêm nhiều dấu ấn sinh học được xác định và đưa vào ứng dụng

Một trở ngại mà Roche đang muốn vượt qua là cố gắng xác định những yếu tố giúp dự đoán hiệu quả điều trị của rituximab trên bệnh nhân. Với nghiên cứu SMART (1) mà các dữ liệu vừa được công bố trên báo chí, họ muốn chứng minh sự liên quan giữa một vài dấu ấn cụ thể trong bệnh thấp khớp và MAbthera® để điều trị bệnh lý này. Như vậy, sự kết hợp cùng lúc hai dấu ấn sinh học sẽ tương ứng với tỷ lệ thành công trên lâm sàng lên tới 85% (2), đối với những bệnh nhân đã từng gặp thất bại khi điều trị cũng như những bệnh nhân không dung nạp với các hoạt chất kháng TNF. Theo Roche, đây có thể coi như những bước đi đầu tiên để định hình chiến lược ứng dụng “cá nhân hóa điều trị” trong bệnh lý viêm khớp dạng thấp.

(1) Các dấu ấn sinh học kích hoạt Lymphocyte B như là những yếu tố chẩn đoán khả năng đáp ứng với rituximab trong bệnh viêm khớp dạng thấp: Một nghiên cứu 6 tháng, tầm quốc gia, đa trung tâm, open-label. Được đăng trên số tháng tư của tạp chí Arthritis & Rheumatism.

(2) Ngoài các chỉ dấu sinh học thông thường được sử dụng trong chẩn đoán bệnh (các kháng thể viêm khớp dạng thấp và anti-CPP), Roche còn nghiên cứu các giá trị chẩn đoán của những biomarker kích hoạt các tế bào B này - những tế bào mục tiêu cụ thể của rituximab.

pharmaceutiques.com

lundi 9 mai 2011

Mua lại Cephalon, Teva muốn đặt cược nhiều hơn vào các thuốc thương hiệu và nghiên cứu phát triển



Không chỉ sở trường với các mặt hàng generics và những hợp đồng sản xuất nhượng quyền, Teva còn tiếp tục chiến lược mở rộng tập đoàn thông qua việc mua lại Cephalon với trị giá 6,8 tỷ USD.


Thỏa thuận đạt được dự kiến sẽ thúc đẩy tổng giá trị mà danh mục thuốc Teva hiện có lên 7 tỷ USD mỗi năm, biến công ty “không chỉ trở thành nhà bào chế generic lớn nhất thế giới, mà cũng là một hãng dược hàng đầu về nghiên cứu các loại thuốc chuyên khoa”, theo Shlomo Yanai, CEO của Teva cho biết. Sau khi hoàn tất việc mua lại, Teva có thể hãnh diện với “hơn 30 loại thuốc mới đang nghiên cứu trong giai đoạn cuối, trong đó 3 loại đã được nộp đơn và chờ xem xét”.

Ngày nay, các tập đoàn lớn đang cắt giảm bộ phận R&D của mình nhằm thoát khỏi những khó khăn và chi phí đắt đỏ khi muốn đưa một loại thuốc mới ra thị trường, họ ngày càng giảm sự hào hứng trong việc đặt cược tiền đầu tư của mình vào một chuyến phiêu lưu mà phải mất đến gần một thập kỷ sau mới biết được kết quả. Chiến lược ưa thích hơn hiện nay là “nhường” cho các công ty mới nổi, quy mô nhỏ những rủi ro, khó khăn khi nghiên cứu phát triển các phân tử mới trong giai đoạn đầu. Một khi các hoạt chất này tỏ ra có hiệu quả trên lâm sàng, và đủ khả năng được cấp giấy phép, các tập đoàn dược phẩm sẽ thâu tóm lấy chúng. Valeant, một tập đoàn dược phẩm lớn của Canada, cũng đã từng đưa ra lời đề nghị mua lại Cephalon, nhưng thất bại.

Với thành công trong thương vụ này, Teva tuyên bố họ muốn đầu tư nhiều hơn vào nghiên cứu phát triển, “xác định những phân tử tiềm năng trong giai đoạn nghiên cứu thăm dò, sau đó dẫn dắt chúng vượt qua toàn bộ con đường phát triển để cuối cùng lưu hành ra thị trường”, theo lời của Yanai. Hiện nay, Teva có 2 nhãn hiệu hàng đầu trên thị trường, Copaxone (bệnh đa xơ cứng mô mềm) và Azilect (bệnh Parkinson). Copaxone có doanh thu 938 triệu USD trong 2010, chiếm 18% tổng doanh thu của tập đoàn, còn Azilect thì đạt doanh số là 89 triệu USD. Đối với Cephalon, sản phẩm best-selling của họ là Provigil (được chỉ định chữa những cơn buồn ngủ quá mức liên quan đến hội chứng ngủ lịm – narcolepsy) , sản phẩm này chiếm 41% doanh số của Cephalon, nhưng dự kiến sẽ phải đối mặt với hàng generic trong năm 2012. Sau khi kết hợp, tập đoàn mới sẽ có đến 20 loại brand drugs trên thị trường.

Cephalon sẽ bổ sung cho Teva nhiều lĩnh vực điều trị mới, đặc biệt là trong việc kiểm soát đau và ung thư, cũng như tăng thị phần của Teva tại Châu Âu, Châu Á và Mỹ Latin. Thỏa thuận cũng sẽ tạo ra một sự hiệp đồng về sale và marketing, dù vẫn còn quá sớm để đánh giá được hiệu quả của sự hiệp đồng này. Với Cephalon, mảng kinh doanh generic của riêng họ, với đại diện là Mepha, cũng đạt doanh thu 400 triệu USD trong năm qua.

Tháng 3 vừa qua, Teva đã kí một thỏa thuận với nhà khổng lồ Procter & Gamble (P&G) trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, nhằm tận dụng mạng lưới bán lẻ rộng khắp của tập đoàn này kết hợp với các mặt hàng thuốc OTC của công ty. Quan hệ đối tác sẽ giúp cả hai bao gồm được mọi thị trường bên ngoài nước Mỹ và có giá trị khoảng 1 tỷ USD.

pharmexec.com

samedi 30 avril 2011

Bệnh đau khớp có thể ví như Bush gặp Bin Laden!

Sammy, một biệt dược của S-adenosyl-methionine 400mg, loại thuốc được lưu hành ở nhiều quốc gia với chỉ định trong điều trị bệnh đau khớp. Với nhãn hiệu này, một công ty quảng cáo Ấn Độ (Sorentho Healthcare Communications, trụ sở ở Bombay) đã quyết định thêm vào một chút hài hước cho mẫu poster của mình, điều ít được thấy trong thế giới quảng cáo dược phẩm.

Việc bào mòn của lớp sụn dẫn đến sự ma sát các khớp gối làm người bệnh cảm thấy đau đớn, toàn bộ quá trình đã được minh họa bằng hình ảnh của những nhân vật đối kháng nhau, tương ứng với 2 đầu xương khớp. Batman và Joker đã được lựa chọn, ngoài ra còn có cả Bush và Bin Laden ! Mỗi poster đều kèm lời minh họa « Khi chúng chà xát lên nhau một cách lệch lạc – when they rub each other the wrong way ». Thật là một ý tưởng táo bạo và hài hước !



supergelule.fr


lundi 11 avril 2011

Một số dược phẩm đáng chú ý ra đời trong năm 2010

Abstral (fentanyl) – ProStrakan/Orexo


Chỉ định : điều trị đau trong bệnh ung thư

Đường dùng : uống

Mô tả : Abstral là một dạng bào chế mới của fentanyl, tan rã nhanh, hấp thu bằng đường dưới lưỡi. Fentanyl là hợp chất opioid lâu đời được sử dụng để kiểm soát các cơn đau ở bệnh nhân ung thư. Abstral dựa trên công nghệ độc đáo và đã được cấp bằng sáng chế của Orexo, phươnh pháp này giúp bào chế được dạng thuốc có thể nhanh chóng hòa tan và được hấp thu bằng đường niêm mạc dưới lưỡi.

Bình luận : Hoa Kỳ là một thị trường lớn trong lĩnh vực kiểm soát các cơn đau gây ra do bệnh ung thư. Sau khi được chấp thuận, Abstral mang đến cho các bác sĩ một lựa chọn bào chế mới của fentanyl.

Aricept SR (donepezil) – Eisai


Chỉ định : điều trị các chứng giảm trí nhớ mức độ nhẹ và bệnh Alzheimer

Đường dùng : uống

Mô tả : Aricept SR là dạng bào chế mới, có tác dụng phóng thích kéo dài của donepezil với hàm lượng là 23 mg. Aricept được phát triển để làm tăng thêm hiệu quả lâm sàng trong khi vẫn duy trì được một mức độ an toàn được bảo đảm so với loại Aricept 10mg phóng thích nhanh đang lưu hành hiện nay.

Bình luận : Eisai cũng đang nghiên cứu cho một dạng bào chế khác của donepezil là dạng miếng dán trên da. Bằng phát minh của viên Aricept phóng thích nhanh đã hết hạn vào tháng 10 năm 2010.

Brilinta (ticagrelor) – AstraZeneca

Chỉ định : Hội chứng mạch vành cấp

Đường dùng : uống

Mô tả : Brilinta được chỉ định để điều trị hội chứng mạch vành cấp. Đây là phân tử đầu tiên thuộc lớp hóa học mới có tên gọi là cyclo-pentyl-triazolo-pyrimidines (CPTPs). Brilinta là tác nhân đối kháng thuận nghịch của thụ thể P2Y12 adenosine diphosphat (ADP). Chất đối kháng ADP ức chế hoạt động các tiểu cầu và do đó ngăn ngừa được tiểu cầu kết tụ tạo huyết khối.

Bình luận : Brilinta tỏ ra hiệu quả hơn Plavix trong các thử nghiệm lâm sàng gần đây. Nếu được chấp thuận, loại thuốc này hứa hẹn mang lại nhiều tỷ USD doanh thu một năm. Tuy nhiên, FDA đã hoãn lại thời gian quyết định cấp giấy phép cho Brilinta thêm 6 tháng để đòi hỏi thêm tài liệu về độ an toàn của thuốc. Điều này gây không ít khó khăn cho AZ.

Retigabine – Valeant/ GlaxoSmithKline
Chỉ định : chống động kinh

Đường dùng : uống

Mô tả : Retigabine là tác nhân gây mở kênh Kali đầu tiên được phát triển đến giai đoạn lâm sàng cuối. Người ta tin rằng retigabine có khả năng làm giảm kích thích thần kinh, một cơ chế quan trọng gây nên các cơn động kinh tiềm ẩn. Nếu được chấp thuận, thuốc này có thể được sử dụng như liệu pháp điều trị bổ sung cho những bệnh nhân người lớn bị các cơn động kinh cục bộ.

Bình luận : Retigabine có khả năng là một tiến bộ đáng kể trong điều trị động kinh. Hiện nay, khoảng 30% các bệnh nhân vẫn bị các cơn động kinh tiếp diễn, mặc dù đã điều trị bằng các thuốc chữa động kinh hiện hành.

Xarelto (rivaroxaban) – Johnson & Johnson/Ortho-McNeil

Chỉ định : phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch sâu sau khi phẫu thuật thay khớp gối, phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch sâu sau khi phẫu thuật thay khớp hông.

Đường dùng: uống

Mô tả: Hoạt chất mới này được bào chế dưới dạng uống, ngày một viên, có thể cạnh tranh trực tiếp với liệu pháp điều trị hiện hành là chích enoxaparin ngày 2 lần. Hồ sơ đăng ký thuốc NDA được đệ trình dựa trên kết quả thử nghiệm lâm sàng của chương trình Đánh giá kết quả của Rosiglitazone lên tim mạch và Kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân tiểu đường (Rosiglitazone Evaluated for Cardiac Outcomes and Regulation of Glycemia in Diabetes - RECORD). Chương trình này bao gồm 4 thử nghiệm phase III liên quan đến hơn 12.000 bệnh nhân. Trong các thử nghiệm này, rivaroxaban cho thấy có hiệu quả cao hơn đáng kể so với enoxaparin mà không có bằng chứng làm tăng nguy cơ chảy máu. Thêm vào đó, các thử nghiệm lâm sàng đang được tiếp tục trên hơn 7000 bệnh nhân trong 3 tháng để nghiên cứu ảnh hưởng của thuốc khi sử dụng với thời gian lâu dài. 4000 trong số này được cho tiếp xúc với enoxaparin trong thời gian từ 6 đến 12 tháng.

Bình luận: Trong các liệu pháp điều trị hiện hành, các bác sĩ đang tìm kiếm một loại thuốc hiệu quả thay thế được cho warfarin mà không làm tăng nguy cơ chảy máu. Vì vậy Xarelto đang được hy vọng là lựa chọn tốt nhất cho các bác sĩ để thay thế wafarin.

Contrave (bupropion SR/ naltrexone SR) – Orexigen

Chỉ định : béo phì

Đường dùng : uống

Mô tả: Contrave là một thuốc kết hợp giữa buprobion và naltrexone. Nó hoạt động trên 2 cấp độ trong hệ thần kinh trung ương. Một cơ chế gắn liền với việc kiểm soát sự cân bằng của lượng thức ăn hấp thu và sự chuyển hóa. Cơ chế còn lại ảnh hưởng đến sự kiểm soát thần kinh chứng thèm ăn.

Bình luận: Contrave được tin rằng có thể khởi đầu và duy trì sự giảm cân đáng kể sau 1 năm điều trị với cơ chế giảm sự thèm ăn, tăng sự trao đổi chất, và cho phép cơ thể tiếp tục giảm khối lượng bằng cách bù đắp lại khuynh hướng tự nhiên của cơ thể là chống lại và làm chậm quá trình giảm cân. Tuy nhiên, việc phát hành Contrave cũng đã gặp khó khăn khi FDA đòi hỏi phải có nghiên cứu thuyết phục hơn, trong nghiên cứu gần đây nhất, nhóm bệnh nhân dùng thuốc có khối lượng giảm chênh lệch 4,5% so với nhóm bệnh nhân dùng giả dược. Con số này thấp hơn mức chuẩn 5% mà FDA quy định cho các thuốc giảm béo.

dimanche 3 avril 2011

Tìm ra cơ hội mới từ những phân tử lâu đời


Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu làm sao Novasep có thể giúp Provepharm nhanh chóng mở rộng quy mô và làm cho một dược chất trở nên tốt hơn so với dạng truyền thống của nó.



Được biết đến từ 135 năm nay với vai trò là một thuốc nhuộm vi sinh và chỉ thị màu trong hóa học, hợp chất dị vòng mang tên xanh methylen còn được dùng làm thuốc nhuộm trong công nghiệp dệt, ngoài ra nó còn được chỉ định làm thuốc chống sốt rét. Ngày nay, các nhà khoa học đang nghiên cứu tìm hiểu những khả năng khác của nó như kháng ung thư, trị bệnh Alzheimer hay các bệnh do nhiễm virus. Xanh methylen hiện giờ vẫn được các bác sĩ dùng trong những bệnh lý nhiễm trùng đường tiểu, cũng như làm chất nhuộm màu cho mô trong một số kỹ thuật hình ảnh y khoa. Nó thậm chí còn được dùng để kháng nấm trong các qui trình bảo quản.

Đáng chú ý nhất, xanh methylene, còn gọi là clorua methylthioninium, là phương thuốc duy nhất có bằng chứng trên lâm sàng và trong các y văn về khả năng chữa căn bệnh hiểm nghèo “met-hemoglobine”, theo Cơ quan thuốc Châu Âu. Đây là bệnh gặp phải do ngộ độc một số thuốc hay thức ăn, dẫn đến nồng độ met-hemoglobin (dạng ôxi hóa của hemoglobin) tăng cao trong máu và làm mất khả năng chuyên chở oxi của hồng cầu. Để trị bệnh này, xanh methylen là chất giải độc có thể chuyển đổi được met-hemoglobin trở thành dạng ban đầu là hemoglobin.


Tuy nhiên, xanh methylen hiện nay được sử dụng thích hợp trong ngành hóa nhuộm hơn là một nguyên liệu dược phẩm. Quả vậy, việc điều chế ra xanh methylen tinh khiết chất lượng cao là khá khó khăn. Nhưng vì các liệu pháp chữa trị thay thế còn hạn chế, nên các tiêu chuẩn dược điển Âu Mỹ hiện hành áp dụng cho hoạt chất này vẫn chấp nhận tồn tại hàm lượng tạp lớn trong nguyên liệu, trong đó bao gồm cả những kim loại nặng có hại đến sức khỏe con người.

Tin rằng sẽ có giải pháp tốt hơn thế, một công ty nhỏ mới thành lập của Pháp, Provepharm, đã gần như thành công trong việc sản xuất ra xanh methylen có chất lượng tinh khiết để phục vụ cho ngành dược phẩm. Được sản xuất từ sự hợp tác với Novasep, công ty chuyên sản xuất dược phẩm theo hợp đồng có trụ sở tại Chasse-sur-Rhône, Pháp, chế phẩm “Proveblue” đã ra đời và đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn khắt khe của Good Manufacturing Practice (GMP), cũng như các quy định hiện hành trong ngành công nghiệp dược phẩm vê hàm lượng cặn kim loại và các tạp chất khác.

“Mục tiêu của chúng tôi là giới thiệu lại xanh methylen như là một nguyên liệu API hứa hẹn hơn cho ngành dược phẩm, nói cách khác là làm thay đổi một loại hóa chất nhuộm trở thành một dược chất”, giám đốc điều hành của Provepharm Michel Féraud đã giải thích như vậy. Trước đây, nhiều nhà nghiên cứu đã từng cố gắng tạo ra một phiên bản xanh methylen tinh khiết hơn, nhưng đều gặp thất bại vì tính chất tạo phức quá mạnh của nó. Các phương pháp điều chế xanh methylen truyền thống có sử dụng nhiều hóa chất oxi hóa khử mang kim loại, dẫn đến việc thành phẩm còn chứa nhiều tạp chất, các tạp chất này lại rất khó bị loại bỏ bởi vì tính chất của chúng gần giống với chính sản phẩm tạo thành.

Vài năm trước, công ty mẹ của Provepharm, Provence Technologies, một công ty chuyên về R&D theo hợp đồng trụ sở đặt tại Marseille, đã quyết định thử sức mình trong việc tinh chế xanh methylen thuốc nhuộm bằng các vật liệu đang có sẵn trên thị trường. Nhưng nếu chỉ đơn thuần là làm sạch một hóa chất thì không đủ thuyết phục các cơ quan chức năng để xin được giấy phép cho một loại thuốc mới. Và nhà sản xuất do đó phải chứng minh được họ đã xác lập được một quy trình rõ ràng, được kiểm soát chặt chẽ với một dây chuyền phản ứng cô đọng dưới các điều kiện của GMP.

Trong quy trình của Provence Technologies, xanh methylen có độ tinh khiết thấp sẽ được bảo vệ hóa học để che đi bản chất phức tự nhiên của nó. Các tạp kim loại nhiễm vào sau đó được lọc ra bởi một hệ thống chuyên biệt. Cuối cùng các nhóm thế bảo vệ được loại bỏ bằng các phản ứng mà không cần dùng đến những tác nhân oxi hóa có chứa kim loại. Việc rửa và kết tinh hơn nữa được tiến hành để tiếp tục làm sạch loại bỏ các tạp chất hữu cơ.

Sau khi thành công trong việc nghiên cứu chuỗi phản ứng và bảo vệ quy trình bằng việc đăng kí sáng chế phát minh. Provence Technologies đã tách riêng Provepharm thành một công ty độc lập. Provepharm bắt đầu hoạt động vào năm 2008, mục tiêu của nó là tìm cách nâng cỡ lô sản xuất và thẩm định quy trình, chuẩn bị các tài liệu cần thiết để nộp hồ sơ lên cơ quan thuốc châu Âu xin đăng kí lưu hành một dạng xanh methylen chích để giải độc met-hemoglobin.

Đầu 2009, Provepharm đã lên kế hoạch cho dự án, lúc đó họ cần tìm kiếm một đối tác đáng tin cậy có thể giúp họ sản xuất nguyên liệu làm thuốc (API) đáp ứng đúng thời hạn của dự án. “Chúng tôi chỉ mới là một công ty start-up nhưng chúng tôi muốn tham gia thị trường nhanh nhất có thể”, Jeff Kaufman, giám đốc nghiên cứu phát triển của Provepharm cho biết. Và họ đã tìm đến Novasep.


Các nhà khoa học của Novasep đầu tiên phải làm quen với quy trình công nghệ của Provence Technologies, sau đó mới tìm cách nhân rộng quy mô sản xuất từ phòng thí nghiệm lên cỡ pilot.

Yêu cầu đó có vẻ như khá đơn giản, chỉ là mở rộng hơn các thao tác với các dụng cụ thủy tinh. Tuy nhiên, việc điều chế ra một phức chất hữu cơ trong môi trường hoàn toàn không có kim loại ở qui mô công nghiệp gặp rất nhiều thách thức. Và Novasep đã thành công, trong vòng 7 tháng, họ đã sản xuất được 1 lô thử nghiệm và 3 lô mẫu của Proveblue để đăng kí cho việc thẩm định quy trình.

Novasep ngoài ra còn giúp đỡ xây dựng một cơ sở dữ liệu chi tiết về sản phẩm, cũng như các hồ sơ cần thiết khác, tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ cho việc xin giấy phép và marketing, phát hành sản phẩm ra thị trường. Không những thế, công ty còn phát triển một phương pháp kiểm nghiệm mới bởi vì những phương pháp hiện hành sẽ trở nên lạc hậu với các sản phẩm có chất lượng cao hơn.

Theo Babak Sayah, đồng phát minh của qui trình đã được cấp bằng sáng chế, Novasep đã cùng một lúc đáp ứng được nhiều nhu cầu. “Một mặt, quy trình của chúng tôi được thực hiện trong dung dịch loãng, mặt khác, chúng tôi cần một nhà sản xuất có kinh nghiệm không bị bối rối khi xử lý một sản phẩm màu xanh, vốn dĩ đã khá là hỗn độn”. Ông nói, “ngoài ra chúng tôi cũng cần một đối tác có khả năng hỗ trợ cho đội ngũ pháp lý của công ty một cách trọn gói, chứ không chỉ đơn thuần là một lời khẳng định họ có thể làm được. Tuy nhiên, quan trọng hơn cả, là tốc độ công việc mà họ có thể thực hiện.”

Một tháng sau khi sản xuất được lô đầu tiên, cơ sở của Novasep đã vượt qua đợt kiểm tra của cơ quan quản lý Pháp. Trong năm 2010, các đối tác đã bắt đầu làm việc để thực hiện kế hoạch nâng cỡ lô lên quy mô thương mại.

Mới tháng trước, một ủy ban châu Âu đã đề nghị cho phép lưu hành dạng tiêm Proveblue cho liệu pháp điều trị met-hemoglobin. Công ty nhỏ này vừa đạt được thành công lớn khi được EU phê duyệt cho sản phẩm và sắp sửa được bán ra trên 27 quốc gia trong thời gian tới. Giấy phép lưu hành mới hứa hẹn một tiềm năng thương mại đáng kể cho loại thuốc này, bộ phận marketing và sale đang đưa ra dự báo về khoản doanh thu hàng năm lên đến 40 – 50 triệu đôla trong 5 năm. Nhà phát minh đang tìm kiếm những công ty phân phối thích hợp để phát triển sản phẩm trên nhiều thị trường khác nhau.

Provepharm hy vọng rằng giấy phép được phê duyệt này sẽ thu hút các nguồn đầu tư mới cho việc nghiên cứu xanh methylen làm thuốc. Về phần mình, công ty muốn nộp hồ sơ chấp thuận lên cơ quan quản lý của nhiều quốc gia khác, và tiến hành nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng cho nhiều chỉ định điều trị mới. “Chúng tôi đang tiến gần đến một thỏa thuận, và đang xúc tiến nhiều cuộc thương thảo cho những hợp đồng rất tiềm năng”, theo lời của Kaufman, trong đó có cả những thị trường lớn như Mỹ và Nhật.

Vì xanh methylen là một dược chất đã được đăng kí bản quyền, nên quy trình đăng kí đối với EU sẽ giống như đăng kí sản xuất một loại thuốc generic. Đối với những quốc gia khác nơi mà xanh methylen chưa được đăng kí, việc xin phép cho Proveblue sẽ tương đối phức tạp hơn. Trong thời gian này, Provepharm đang có kế hoạch thương thảo xúc tiến đăng kí Proveblue lên cơ quan FDA của Hoa Kỳ.

Provepharm cho rằng công ty đã cung cấp cho thị trường một API với mức độ “chi phí trên hiệu quả” đã được cải thiện đáng kể. Hàm lượng kim loại trong Proveblue chỉ bằng 1-2% so với qui định trong các dược điển hiện hành. “chúng tôi có thể chứng minh được rằng độc tính của thuốc đã giảm đi rõ rệt một khi các tạp kim loại được loại bỏ”.

Ngoài việc nâng cao được độ tinh khiết của sản phẩm, nhà sản xuất cho rằng họ đã tăng giá trị của loại API này lên ít nhất 10 lần. Thực vậy, Proveblue có thể thiết lập một tiêu chuẩn mới cho xanh methylen, và buộc các phiên bản kém tinh khiết hơn phải rút khỏi thị trường. Điều này dường như đang xảy ra. Trong tháng 11/2010, bộ y tế Pháp đã rút giấy phép nhiều sản phẩm nhập khẩu vào Pháp và cho phép Proveblue được ưu tiên sử dụng dù số visa chưa được thông qua, theo luật “Compassionate use – các trường hợp sử dụng ưu tiên” của nước này.

Con đường phát triển qui trình, nghiên cứu nâng cỡ lô, thẩm định, sản xuất, chuẩn bị hồ sơ và xin giấy phép lưu hành đã được tiến hành trong thời gian chỉ mất 2 năm. Các đối tác thậm chí còn dự kiến sản xuất với số lượng lên đến hàng tấn. Cuối cùng, Novasep đang đầu tư nghiên cứu cho quy trình nâng cỡ lô của riêng họ, đánh dấu một bước mới trên con được nâng cao chất lượng của nguyên liệu làm thuốc xanh methylen.

theo C&EN