vendredi 5 octobre 2012

Cơ hội lớn từ những thuốc mồ côi

Hiện nay, có Khoảng 25 triệu người Mỹ đang phải chung sống với những căn bệnh “mồ côi”. Mặc dù biết rằng một căn bệnh cụ thể chỉ ảnh hưởng trên số lượng tương đối ít người, nhưng tổng số bệnh nhân lại ngày càng nhiều khi tính chung tất cả các căn bệnh hiếm này, đang trở thành cơ hội tiềm năng cho các công ty dược. Điều này được phản ánh bởi một thực tế là các phương pháp trị liệu mới cho những nhu cầu y tế sẽ nhận được sự bồi hoàn lớn từ hệ thống bảo hiểm.

“Chi phí điều trị cao kèm theo những nhân tố khuyến khích hấp dẫn, ví dụ như sự ưu đãi từ chính quyền (bao gồm các khoản tín dụng thuế), yêu cầu thử nghiệm lâm sàng quy mô nhỏ và ngắn hơn, thời gian độc quyền cao và tỷ lệ đăng kí thành công lớn, đã làm cho các thuốc “mồ côi” hàng đầu có thể phát triển tốt như những thuốc thông thường” – báo cáo của Thomson Reuters, kèm theo nhận định rằng thị trường thuốc mồ côi toàn cầu đã có giá trị hơn 50 tỷ USD tính đến thời điểm cuối năm ngoái. 

Trong khi đó, chi tiêu về thuốc mồ côi hiện đang chiếm khoảng 6% tổng doanh số dược phẩm (ước tính tổng giá trị thị trường là 880 tỷ USD). Tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 2001 đến 2010 khoảng 25.8%, so với 20.1% ở nhóm thuốc thông dụng. Kết hợp với việc các thuốc trong nhóm được chấp thuận ngày càng tăng, dữ liệu khảo sát cho thấy tốc độ tăng trưởng hàng năm của nhóm thuốc này sẽ vượt hơn hẳn các loại thuốc khác. 

Giá thành cao chính là điểm tựa cho sự tăng trưởng. Trong 2010, loại thuốc đắt nhất có tên là Soliris, có chi phí điều trị hơn 409,000 USD một năm, điều trị bệnh huyết cầu tố niệu kịch phát ban đêm (paroxysmal nocturnal hemoglobinuria), một căn bệnh huyết học hiếm đe dọa đến tính mạng. Dược phẩm này đã tạo ra 541 triệu USD doanh thu cho Alexion Pharma. "Đây là một thành tựu đáng kể về doanh thu, với chỉ từ 4.000 đến 6.000 người bị bệnh này ở Mỹ," báo cáo cho biết. 

Hơn nữa, việc nghiên cứu một loại thuốc mồ côi để chỉ định điều trị các bệnh mồ côi khác sẽ giúp công ty dược nộp thêm nhiều đăng kí cho cơ quan quản lý. Thomson Reuters nhận thấy rằng 15% thuốc được khảo sát đã có những chấp thuận tiếp theo của cơ quan quản lý cho việc điều trị các bệnh hiếm khác. Và trong 10 thuốc mồ côi hàng đầu, 6 loại có chỉ định điều trị nhiều hơn 1 loại bệnh hiếm với tiềm năng doanh số là 34,3 tỷ USD, so với 8,1 tỷ ở những loại thuốc chỉ có 1 chỉ định điều trị. 

Vậy thuốc mồ côi có doanh số lớn nhất là thuốc nào? Đó là Rituximab, một chế phẩm điều trị ung thư do Roche phát triển. Trong thực tế, 4 trên 10 loại thuốc mồ côi best seller hiện nay là điều trị ung thư, mặc dù vị trí thư 2 thuộc về Lucentis, dùng trong nhãn khoa, cũng là 1 sản phẩm khác của Roche. 



Tuy nhiên, việc phát triển thành công 1 loại thuốc mồ côi, tất nhiên, không phải là một thắng lợi tuyệt đối. Mô hình thử nghiệm lâm sàng điển hình có thể không hoàn toàn phù hợp để tạo ra kết quả rằng thuốc đó an toàn và hiệu quả trong điều trị các bệnh mồ côi, khi mà việc thu tuyển bệnh nhân có thể khó khăn cũng như bệnh tiến triển chậm và không đều trong một thời gian dài, theo Steven Grossman, một người đã từng tham gia soạn thảo Luật Thuốc Mồ côi vào năm 1983 tại Mỹ. “Thường thì quần thể điều trị thường quá rải rác hoặc quá tập trung. Một số lượng đáng kể các bệnh hiếm không có tài liệu lịch sử tự nhiên” ông nói, “Nhiều bệnh hiếm gặp có tính chất thoái hóa và không đồng nhất về lịch sử tự nhiên. Ví dụ, một thử nghiệm 2 năm có chứng tỏ được hiệu quả đầy đủ khi tổng thời gian tiến triển của bệnh là 10 năm? Các bệnh lý di truyền cũng gây ra thách thức đáng kể cho việc thiết kế nghiên cứu, nhất là trong việc xác định các dấu ấn sinh học và các tác nhân thay thế cho việc tiến triển của bệnh”.

Theo Pharmalot

jeudi 1 septembre 2011

Vắc xin sốt xuất huyết : thách thức và các tiến bộ


Như những bệnh truyền nhiễm khác, công cụ hiệu quả nhất để chiến đấu chống lại sốt xuất huyết (sốt dengue) là vaccine. Đó là phương pháp vừa hiệu quả lại vừa kinh tế, có thể giúp đẩy lui được căn bệnh đang đe dọa hàng chục triệu người trên thế giới. Người ta đã cố gắng phát triển vaccine dengue từ 60 năm nay, nhưng nó đã gặp phải rất nhiều khó khăn, không chỉ là thử thách về mặt khoa học, mà còn do sự thiếu quan tâm của các công ty dược phương Tây vì nghĩ rằng nó chỉ là vấn đề của các nước nghèo đang phát triển.

Đó là lý do tại sao dù số ca sốt xuất huyết gia tăng ngày càng nhiều trên thế giới, những nỗ lực của chúng ta gần như là con số không. Hiện nay chưa có thuốc nào phòng ngừa hay kháng được virus. Cách duy nhất mà người ta áp dụng hiện nay là cố gắng kiểm soát sự sinh sản của muỗi vằn Aedes aegypti, loài côn trùng trung gian gây bệnh của virus dengue.

Như chúng ta thấy hiện nay, biện pháp trên tỏ ra tốn thời gian và chủ yếu là không hiệu quả. Bộ y tế thường khó khăn trong việc tuyên truyền cho công chúng nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng những biện pháp như: tìm và tiêu diệt nơi sinh sản của muỗi, tự bảo vệ bản thân, chữa trị sớm khi bị sốt và không để đồ đạc bừa bãi.

Nhờ vào sự ấm lên và sự toàn cầu hóa, sốt xuất huyết ngày nay đã bắt đầu trở thành mối quan tâm của phương Tây. Tại Mỹ, căn bệnh này một thời đã bị diệt trừ, nay đã quay lại. Từ nhiều năm nay, sự đô thị hóa nhanh chóng đặc trưng bởi các khu vực đông dân cư đi kèm với môi trường cho muỗi phát triển trên diện rộng đã làm gia tăng sự bùng nổ các ca nhiễm sốt xuất huyết, từ 1,2 triệu ca được báo cáo năm 1998 đã tăng lên xấp xỉ 50 triệu hiện nay, với số quốc gia tăng lên đáng kể. Người ta cũng tin rằng con số thực tế còn lớn hơn nhiều, vì đa số ca nhiễm sốt xuất huyết nhẹ đều có triệu chứng không điển hình.

Với sự giúp đỡ của các chính phủ cũng như sự tài trợ của quỹ Bill và Melinda Gate, những nỗ lực nghiên cứu để tìm một loại vắc xin hiệu quả đã phát triển hơn 60 dự án trên toàn thế giới. Tuy nhiên, ngày mà cục quản lý dược Mỹ FDA phê duyệt cho một loại vaccin chủng ngừa hoặc điều trị vẫn còn một vài năm nữa. Rõ ràng, sốt xuất huyết không phải là một thách thức dễ dàng bị vượt qua, các nhà khoa học đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc thiết kế một loại vaccine mà vừa có thể phát triển sự miễn dịch bảo vệ lại vừa không kích hoạt một phản ứng miễn dịch thứ cấp nguy hiểm.

Để dễ hiểu hơn về trở ngại này, các nhà khoa học giải thích: Trong đa số các bệnh truyền nhiễm, khi người ta đã mắc bệnh một lần, thì họ sẽ được bảo vệ khỏi bệnh đó và hiếm khi nào mắc lại lần thứ 2, ví dụ như các bệnh đậu mùa, thủy đậu,... Đó cũng chính là nguyên lý để người ta chế tạo ra vaccine. Tuy nhiên, sốt xuất huyết thì hoàn toàn khác hẳn.

Một trong những điểm độc đáo đặc trưng của sốt xuất huyết là bạn có thể bị mắc nhiều lần trong đời, thậm chí khi mắc lần 2 bạn sẽ có nguy cơ bị nặng hơn lần đầu.” theo Tiến sĩ Anna Durbin, một giáo sư tại trường Đại học Johns Hopkins Bloomberg về Y tế công cộng, người đang làm việc với Viện quốc gia về dự án vắc-xin sốt xuất huyết.

Lý do của hiện tượng này là vì virus Dengue tồn tại dưới dạng 4 chủng (serotype) khác nhau được gọi tên lần lượt từ DEN 1 đến 4. Các chủng này hoàn toàn độc lập, người lần đầu nhiễm 1 trong 4 chủng này thường có biểu hiện sốt nhẹ không điển hình (sốt Dengue). Sốt xuất huyết Dengue hay nặng hơn là Hội chứng sốc Dengue (thể nặng) thường xảy ra trong lần nhiễm trùng sau, khi bệnh nhân đã có sẵn miễn dịch chủ động (do đã bị bệnh) hoặc thụ động (do mẹ truyền sang) đối với một loại huyết thanh khác. Một số nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng "thể nặng của bệnh là Sốt xuất huyết Dengue/Hội chứng sốc Dengue xảy ra khi một người đã nhiễm bệnh trong quá khứ bởi một loại serotype virus nay lại nhiễm một loại serotype virus khác". Giả thuyết này được củng cố bởi các ghi nhận lâm sàng rằng Sốt xuất huyết Dengue gặp chủ yếu ở những người đã ít nhất một lần mắc bệnh trước đó và Sốt xuất huyết Dengue xảy ra thường xuyên hơn ở các cư dân trong vùng dịch lưu hành hơn là các du khách mắc bệnh tại nơi này trong cùng thời điểm. Vì thế, một vaccine an toàn phải là một vaccine tứ giá (tetravalent) có thể chống lại cùng lúc cả 4 chủng serotype trên, và điều này thật sự là một thử thách.

Những tiến bộ đi xa nhất tính tới thời điểm này là các vaccine được làm từ virus dengue sống, giảm động lực. Các công ty như GSK và Sanofi Pasteur đã đạt được nhiều thành tựu khi đưa được sản phẩm của mình vào giai đoạn thử nghiệm trên người.

Các báo cáo ban đầu từ 1 thử nghiệm tại Thái Lan cho loại vaccine được phát triển bởi tập đoàn Pháp Sanofi Pasteur được mô tả là “rất hứa hẹn”. Thử nghiệm này được tiến hành vào năm 2009, bao gồm 4,000 trẻ em và đang chứng tỏ hiệu quả trong 2 năm đầu, mà không có trẻ tình nguyện nào mắc phải các phản ứng phụ nguy hiểm từ vaccine. Sanofi dự kiến sẽ tiếp tục nghiên cứu thêm vaccine tại nhiều quốc gia như Philippine, Indonesia hay Việt Nam.

Vì đặc tính của mình, sốt xuất huyết cần phải mất một thời gian dài hơn gấp 3-4 lần để phát triển một loại vaccine so với những loại vaccine từ virus có họ hàng tương tự như virus viêm não Nhật Bản và virus Sốt vàng. Nếu mọi thứ diễn ra thuận lợi trong các nghiên cứu lâm sàng, các chuyên gia cho biết kế hoạch triển khai tiêm chủng cho cộng đồng sẽ bắt đầu sớm nhất vào năm 2015.

Một tin vui khác cũng đến từ khu vực ASEAN. Một báo cáo của Guardian London cho biết những nhà nghiên cứu Singapore đang nghiên cứu một loại test thử đơn giản, rẻ tiền và không xâm lấn cho bệnh sốt xuất huyết dựa vào nước bọt so với các xét nghiệm máu hiện tại. Nếu thành công, nó sẽ cung cấp một phương pháp hiệu quả để thử sốt xuất huyết tại nhà, điều này sẽ giúp việc điều trị trở nên kịp thời hơn.

Cuối cùng, trong khi chờ đợi một vaccin mới sắp ra đời, trước mắt bạn hãy tìm cho mình 1 bác sĩ nhi khoa, bất kể tuổi tác của bạn là bao nhiêu. Lý do là vì bác sĩ nhi khoa luôn là chuyên gia hàng đầu hiện nay trong việc kiểm soát và điều trị sốt xuất huyết, và ngày càng có nhiều ca được báo cáo về sốt xuất huyết ở người lớn với những diễn tiến nghiêm trọng khó lường!

philstar.com


samedi 13 août 2011

CRO, họ là ai?


Một công ty CRO (Contract Research Organisation hay Clinical Research Organisation) là một công ty cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho ngành công nghiệp dược phẩm và chế phẩm sinh học. Các tổ chức CRO cung cấp một danh mục lớn nhiều dịch vụ nghiên cứu thuốc mà các tập đoàn dược phẩm muốn « outsource » trên con đường phát triển thuốc vô cùng khó khăn và tốn kém. Khi mới hình thành, thị trường CRO chủ yếu nổi bật trong lĩnh vực thử nghiệm lâm sàng, ngoài ra họ còn phát triển dịch vụ trong những mảng như đăng kí thuốc, logistics hay lưu hành sản phẩm. Theo nhận định, một nghiên cứu lâm sàng thực hiện bởi 1 công ty CRO có thể nhanh hơn 30% so với khi được thực hiện bởi các công ty dược. Đây là một thị trường rất phân mảnh, các công ty CRO cũng rất phong phú, từ những tập đoàn đa quốc gia có thể cung cấp đầy đủ mọi dịch vụ cần thiết cho đến những công ty nghiên cứu nhỏ, chỉ tham gia vào các thị trường ngách đòi hỏi sự phức tạp hay khu vực địa lý đặc thù. Những công ty CRO thường hỗ trợ cho các công ty dược nhưng họ cũng có thể tham gia vào lĩnh vực chế phẩm sinh học, dụng cụ y tế hay thậm chí cả nông nghiệp và thú y.



Tổng quan về thị trường CRO

Nghiên cứu theo hợp đồng là một ngành công nghiệp nhiều tỷ USD. Trong 5 năm qua, nhu cầu của thị trường này tăng trung bình 14-16% một năm, dựa vào sự phát triển mạnh số lượng các thử nghiệm lâm sàng cũng như độ phức tạp và quy mô ngày càng lớn của những thử nghiệm này. Hiện nay có hơn 1100 công ty CRO trên toàn thế giới, dẫn đầu về thị trường là 3 tập đoàn đa quốc gia, chiếm ưu thế với doanh số mỗi công ty đều trên 1 tỷ USD bao gồm : Covance, PPD, Quintiles. Hình mô tả sau bao gồm các pha thử nghiệm tiền lâm sàng, I, II và III được thực hiên bởi CRO.



Các hoạt động toàn cầu vs địa phương

Có hơn 1000 công ty trong một thị trường nhiều phân mảnh, cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau. Những công ty nhỏ doanh số có thể dưới 1 triệu USD. Xu hướng chung khuyến khích các công ty mở rộng hoạt động ra toàn cầu hơn là chỉ tồn tại trong khu vực. Tuy nhiên, vẫn có những thị trường tập trung then chốt cho ngành công nghiệp, đặc biệt là tại Mỹ, châu Âu và châu Á. Ví dụ như năm 2008, phần lớn doanh số từ thử nghiệm lâm sàng đến từ các dự án tại Mỹ. Và thực tế là 2/3 trong số hơn 1000 công ty CRO có trụ sở tại Mỹ. Sự ưu thế tuyệt đối này là do Mỹ hiện vẫn là thị trường dược phẩm lớn nhất thế giới, cũng như điều kiện thuận lợi về mọi mặt khi tiến hành các thử nghiệm tại đây. Về châu Á, mặc dù sẽ hưởng lợi nhiều từ sự gia tăng nghiên cứu tại Trung Quốc và Ấn Độ, doanh thu vẫn thấp đáng kể so với tổng doanh thu toàn cầu vì nguyên nhân giá trị đồng tiền quá thấp tại các khu vực này. Nam Mỹ và châu Phi cũng bắt đầu chiếm một phần nhỏ thị trường, cũng như Đông Âu và nhiều nơi tại châu Á, nghiên cứu ở đây chỉ tốn một phần ít chi phí so với EU hay Mỹ, trong khi nhóm bệnh nhân ở đây lại thích hợp cho nghiên cứu và hứa hẹn sẽ mang đến số liệu có chất lượng.

Xu hướng của ngành gần đây

Ngành công nghiệp vẫn đang hướng đến mô hình cung cấp dịch vụ « full-service », nghĩa là thực hiện nghiên cứu từ các giai đoạn sớm nhất qua các giai đoạn lâm sàng và đến giai đoạn nghiên cứu sau khi được lưu hành. Các nhu cầu đặc biệt tăng mạnh trong những năm qua, với sự bùng nổ của các thử nghiệm pha II và pha III cũng như sự tăng trưởng đều đặn của pha I. Ngoài ra, sự gia tăng lo ngại về các vấn đề an toàn cũng giúp thúc đẩy thử nghiệm sau khi lưu hành. Không những thế, với sự khắt khe của FDA về vấn đề an toàn, kích cỡ nghiên cứu cũng trở nên ngày càng lớn. Nhu cầu cho những thử nghiệm lớn đã góp phần đòi hỏi các công ty CROs phải mở rộng hoạt động ra toàn cầu.

Nguồn cung cấp các sản phẩm dược-công nghệ sinh học

Năng suất R&D của các nhà sản xuất là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến ngành CRO. Bộ phận nghiên cứu phát triển của các công ty dược cần phải đảm bảo duy trì dòng cung cấp các hoạt chất mới để giữ cho sự tăng trưởng của công ty

Chi phí gia tăng cho R&D

Đây cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến ngành CRO. Việc chi phí ngày càng đắt đỏ trong nghiên cứu lâm sàng tạo nhiều cơ hội cho các công ty nghiên cứu, có thể nói sự lớn mạnh và phát triển của các tập đoàn dược chính là yếu tố then chốt của các công ty CRO, vì chính họ là người cung cấp ngân sách cho ngành công nghiệp này.

Ngoài ra, sự “outsource” ngày càng tăng trong các hoạt động nghiên cứu thuốc là kết quả của các yếu tố sau:

Áp lực về giá thuốc

Các công ty dược luôn chịu nhiều áp lực về giá thuốc từ cơ quan quản lý và bệnh nhân. Vì vậy Covance Inc tin rằng các tập đoàn dược này cần chịu trách nhiệm cắt giảm chi phí bằng cách chuyển những chi phí cố định trong việc duy trì bộ phận nghiên cứu lâm sàng thành chi phí lưu động, có thể tăng hay giảm tùy theo nhu cầu, bằng cách thuê ngoài các hoạt động này cho CRO. Các công ty dược sẽ thấy họ không đủ tiềm năng phát triển nội bộ đáp ứng nhu cầu khi có quá nhiều phân tử tiềm năng ra đời cần được thử nghiệm. Covance cũng tin rằng các công ty dược sẽ cố rút ngắn thời gian nghiên cứu lâm sàng bằng cách outsource cho các CROs, nơi tập trung nhiều kinh nghiệm và chuyên môn hơn.

Sự toàn cầu hóa thị trường dược phẩm:

Các tập đoàn đang cố gắng mở rộng thị trường ra toàn cầu cho các thuốc mới phát minh của họ. Mong muốn đăng ký lưu hành cùng lúc trên nhiều thị trường sẽ thay thế cho việc đăng ký lưu hành tuần tự các nước như trước kia. Với xu thế này, những công ty CROs vốn thông thuộc môi trường và điều kiện pháp lý trên nhiều quốc gia sẽ là các đối tác tốt cho họ.

Phong trào M&A trong ngành dược:

Các thương vụ M&A khổng lồ trong ngành dược là kết quả của việc cắt giảm tinh gọn cơ cấu của các công ty. Một khi sát nhập, nhiều việc làm phải bị cắt giảm, các chi phí cho nghiên cứu và phát triển thuốc cũng rất hạn chế. Vì vậy hợp tác với các công ty CRO là một lựa chọn hiệu quả và tiết kiệm.

Đòi hỏi ngày càng khắt khe của cơ quan quản lý:

Cơ quan quản lý của mọi quốc gia đều trở nên ngày càng khắt khe, họ đòi hỏi nhiều nghiên cứu lâm sàng hơn và quy mô lớn hơn để chứng minh thuyết phục hiệu quả của các thuốc mới ra đời. Đó cũng là một trong những yếu tố thuận lợi cho các công ty CROs.

Tập trung vào các lĩnh vực điều trị:

Với những lĩnh vực điều trị như tim mạch, ung thư, viêm khớp, Alzheimer, việc tiến hành các nghiên cứu lâm sàng là khá phức tạp, đòi hỏi các thuốc mới phải chứng tỏ được hiệu quả rõ rệt và không có nhiều tác dụng phụ khi sử dụng trong thời gian dài.

Áp lực cạnh tranh ngày càng tăng trong ngành dược

Chi phí cho R&D ngày càng tăng cao trong khi năng suất của nó lại giảm, các công ty dược cần phải tìm ra giải pháp để giúp cổ đông của họ tin rằng tiền đầu tư của mình được thu hồi vốn nhanh chóng. Để giải tỏa được áp lực này, các tập đoàn cần học cách nghiên cứu thuốc thật nhanh chóng nhưng lại phải giảm chi phí. Vì vậy, việc bắt tay với các đối tác giàu kinh nghiệm như các CROs là một lựa chọn tốt.

Sự phát triển của các công ty Công nghệ sinh học

Ngành công nghệ sinh học Mỹ đang tăng trưởng mạnh với sự ra đời nhiều sản phẩm tiềm năng cho các căn bệnh nan y. Tuy nhiên nhiều công ty công nghệ sinh học chỉ mới thành lập và không có đủ nguồn nhân lực, cơ sở vật chất để tiến hành các thử nghiệm lâm sàng tốn kém. Họ chấp nhận thuê ngoài công đoạn này cho các CROs để tránh mất thời gian xây dựng đội ngũ nhân lực của mình.

Hợp tác giữa Pharma và CRO là xu hướng tất yếu của ngành dược phẩm


"The CRO Market Outlook: Emerging Markets, Leading Players And Future Trends. Viewed April 02, 2008"

lundi 8 août 2011

Top 50 dược phẩm có nguồn gốc sinh học trên thế giới

Các chế phẩm sinh học là những sản phẩm được sản xuất từ cơ thể sống (nhờ quy trình công nghệ sinh học): nhiều loại protein tái tổ hợp, kháng thể đơn dòng, huyết thanh hay vaccin. Nói đơn giản : "Nếu loại thuốc này không phải là một phân tử nhỏ, thì nó chính là biopharma!""

Dưới đây là các loại dược phẩm công nghệ sinh học bán chạy nhất toàn cầu, theo ý kiến của Ronald A. Rader, chủ tịchViện thông tin công nghệ sinh học, nhà xuất bản tạp chí BIOPHARMA: Biopharmaceutical Products in the U.S. and European Markets (www.biopharma.com), nguồn thông tin tham khảo duy nhất trong lĩnh vực dược phẩm công nghệ sinh học này.

Trade Name

Description

Marketer

2010 Revenues

1. Enbrel

TNF Mab, rDNA

Amgen / Pfizer

$7,287

2. Avastin

VEGF Mab, rDNA

Roche

$6,973

3. Rituxan

CD20 Mab, rDNA

Roche / Biogen

$6,859

4. Remicade

TNF Mab, rDNA Mab, rDNA

Johnson & Johnson $6,520

5. Herceptin

HER2 receptor

Roche

$5,859

6. Humira

TNF Mab, rDNA

Abbott

$5,488

7. Lantus

Insulin glargine, rDNA

Sanofi

$4,834

8. Neulasta

G-CSF, rDNA, PEG

Amgen

$3,558

9. Lucentis

VEGF Mab Fab, rDNA

Roche

$3,106

10. Aranesp

EPO, darbo-, rDNA

Amgen

$2,995

11. Avonex

Interferon beta-1a, rDNA

Biogen Idec

$2,518

12. Prevnar-7

Pneumococcal Vaccine(7)-CRM197

Pfizer $2,400

13. Rebif

Interferon beta-1a, rDNA

Merck

$2,297

14. NovoLog

Insulin aspart, rDNA

Novo Nordisk

$2,198

15. Novolin

Insulin, rDNA

Novo Nordisk

$2,185

16. Advate

Factor VIII, rDNA

Baxter

$2,095

17. Humalog

Insulin lispro, rDNA

Lilly

$2,054

18. Procrit / Eprex

EPO, rDNA

Johnson & Johnson

$1,900

19. Erbitux

EGF receptor Mab, rDNA

Bristol-Myers Squibb

$1,791

20. Pegasys

Interferon alfa, rDNA, PEG

Roche

$1,775

21. Betaseron

Interferon betaser, rDNA

Bayer

$1,661

22. NovoSeven

Factor VIIa, rDNA

Novo Nordisk

$1,483

23. BOTOX

Botulinum Toxin A

Allegan

$1,414

24. NeoRecormon

EPO, rDNA

Roche

$1,387

25. Kogenate

FS Factor VIII, rDNA

Bayer

$1,383

26. Neupogen

G-CSF, rDNA

Amgen

$1,286

27. Levemir

Insulin detemir, rDNA

Novo Nordisk

$1,271

28. Engerix-B

Hepatitis B Vaccine, rDNA

GlaxoSmithKline

$1,200

29. Tysabri

Integrin Mab, rDNA

Biogen Idec / Elan

$1,089

30. Humulin

Insulin, rDNA

Lilly

$1,089

31. Synagis

RSV Mab, rDNA

MedImmune/AstraZeneca

$1,038

32. Gardasil

HPV vaccine, rDNA

Merck

$998

33. Varivax

Varicella Vaccine

Merck

$929

34. Norditropin

Somatropin, rDNA

Novo Nordisk

$887

35. Genotropin

Somatropin, rDNA

Pfizer

$885

36. Forteo

Parathyroid hormone, rDNA

Lilly

$830

37. PEG-Intron

Interferon alfa-2b, rDNA

Merck

$737

38. Orencia

CTLA4-Ig, rDNA

Bristol-Myers Squibb

$733

39. Cerezyme

Glucocerebrosidase, rDNA

Genzyme/Sanofi

$720

40. Xolair

mmunoglobulin E Mab, rDNA

Roche & Novartis $692

41. Gonal-f

FSH rDNA

Merck Serono

$674

42. BeneFIX

Factor IX, rDNA

Pfizer

$643

43. Menactra

Meningococcal Vaccine

Sanofi

$626

44. Pulmozyme

DNase, rDNA

Roche

$554

45. Soliris

Complement C5 Mab, rDNA

Alexion $541

46. Follistim AQ

FSH rDNA

Merck Serono

$528

47. Nutropin

Somatropin, rDNA

Roche

$504

48. TNKase

tPA, TNK-, rDNA

Roche

$496

49. Helixate FS

Factor VIII, rDNA

Bayer

$480

50. Actemra

IL-6 receptor mAb, rDNA

Roche

$428


contractpharma.com

vendredi 5 août 2011

Vaccine và những tiến bộ công nghệ trong quản lý dây chuyền lạnh


Chúng ta sẽ tìm hiểu làm sao giảm bớt được rủi ro tại những quốc gia đang phát triển.

Có khi nào chúng ta đặt ra câu hỏi về chất lượng các loại thuốc mà chúng ta phải dùng, nhất là các thuốc tiêm hay vaccin được tiến hành ở bệnh viện? Thực tế ta thường không nghĩ đến điều đó. Chúng ta cảm thấy hoàn toàn yên tâm với những loại thuốc được bác sĩ kê toa và được dùng tại bệnh viện với một sự hài lòng rằng chúng an toàn và hiệu quả. Có lẽ chúng ta là người may mắn, vì trong điều kiện hiện nay, chúng ta có thể được điều trị bằng những thuốc mà chúng ta cần, và những thuốc đó cũng đa phần được bảo quản trong điều kiện tốt.

Theo nghiên cứu của một nhóm chuyên gia ở London, 90% gánh nặng y tế của thế giới rơi vào các quốc gia nằm tại bán cầu nam – nơi mà người dân chỉ có thể tiếp cận được 10% tổng số dược phẩm trên toàn cầu. Hàng năm, có 9 triệu trẻ em chết dưới 5 tuổi, một nửa nằm ở khu vực nam Sahara. Người ta ước tính tại đây cứ trung bình 30 giây, căn bệnh sốt rét lại giết chết một đứa trẻ. Ngoài ra, hai phần ba trong số 33,4 triệu người nhiễm HIV toàn cầu, và một phần ba số ca lao phổi hàng năm cũng được tìm thấy ở đây. Những căn bệnh bị lãng quên như vậy đã ảnh hưởng nặng nề cho những khu vực nghèo nhất trên thế giới.

Tại những nước này, năng lượng thiếu hụt là một vấn đề then chốt. Những hệ thống phát điện cũ kĩ lạc hậu đã không theo kịp sự gia tăng quá nhanh về dân số. Việc thiếu điện gây ra những thách thức cho việc cung cấp dịch vụ y tế đến các cộng đồng dân cư xa xôi. Điển hình, đối với một trong những nguyên lý cơ bản của việc chăm sóc sức khỏe là phương pháp chủng ngừa ngăn chặn những bệnh truyền nhiễm như bại liệt, bạch hầu , uốn ván, sốt vàng da, viêm gan B... việc làm lạnh vì thế không chỉ là tối cần thiết cho việc lưu trữ thực phẩm, nó còn là công cụ then chốt không thể thiếu trong việc bảo quản chất lượng vaccine để ngăn ngừa các căn bệnh này.

“Tất cả các loại vaccine đều cực kì nhạy cảm với nhiệt, một số khác thì bị hỏng nhanh chóng khi bị đông băng,” Dr. Smith Cartoglu, chuyên viên kĩ thuật của tổ chức y tế thế giới giải thích. Các vaccine sẽ được chuyển ra khỏi nhà máy bằng những xe tải kiểm soát nhiệt độ và đóng hàng để bay đến thủ đô của các quốc gia để lưu trữ. Sau đó chúng sẽ được vận chuyển sâu hơn đến các vùng xa xôi của quốc gia, tiếp tục lưu trữ tại các bệnh viện, và cuối cùng được sử dụng để tiêm cho bệnh nhân. Đối với nhiều khu vực, mất điện là điều xảy ra thường xuyên, chưa kể đến những nơi thậm chí còn không có điện.

Trong quá khứ, những nhân viên y tế vùng sâu gần như không có cách nào để xác định xem những vaccine mà họ sắp sử dụng có đảm bảo tiêu chuẩn và đã từng tiếp xúc với nhiệt độ cao sau quá trình vận chuyển trên một quản đường dài. Trong khi một số vaccine lại nhanh chóng mất hiệu lực khi nhiệt độ chỉ tăng lên vài độ C. Ngày nay, tiến bộ khoa học đã cho phép họ nhận ra: một mẩu nhãn nhỏ, vừa đủ ghép chung với nhãn vỏ vaccine, có thể giúp họ phát hiện ra vaccine đó đã tiếp xúc với nhiệt độ cao hay chưa. Nó làm được khả năng hữu ích này nhờ vào một cơ chế thay đổi màu sắc không-thể-đảo-ngược. gọi là dấu hiệu chỉ thị nhiệt vaccine (Vaccine vial monitor – VVM)

Sau đây là cơ chế: nguyên lý hoạt động của nó dựa vào một hình vuông làm bằng vật liệu rất nhạy cảm với nhiệt độ nằm chính giữa một vòng tròn. Hình vuông này sẽ có màu nhạt hơn nhiều so với vòng tròn khi dán lên lọ vaccine. Dần dần, màu sắc trong hình vuông tối đi, không hồi phục lại được trong quá trình tiếp xúc với nhiệt. Nếu màu của hình vuông đậm ngang với màu của hình tròn, ta sẽ biết lọ vaccin đó đã bị tiếp xúc quá lâu với nhiệt và phải bỏ đi. Nếu mức độ đen theo thời gian của hình vuông vẫn còn nhạt hơn so với hình tròn, và lọ vaccine vẫn còn hạn sử dụng, thì lọ này vẫn còn dùng được.

cách đọc chỉ thị nhiệt vaccine

Khái niệm về VVM lần đầu tiên được đề xuất vào năm 1979 do tổ chức Y tế Thế giới. Nó được thúc đẩy liên tục và kéo dài bởi nhiều tổ chức nhằm làm chủ được công nghệ này. Nhưng phải mất hơn 2 thập kỷ để đưa vào thực tế ứng dụng này ở các nước nghèo, nơi mà chỉ một đồng xu bỏ ra thêm cho chi phí cũng đã là một vấn đề lớn.

Người ta mong đợi đến năm 2019, VVM sẽ trở nên phổ biến và giúp các nhân viên y tế phát hiện và loại bỏ hơn 239 triệu liều vaccine đã bị hư hỏng. Qua đó có thể thấy VVM giúp tránh lãng phí, tiết kiệm được 5 triệu USD giá trị của vaccine hàng năm. VVM cũng sẽ tao điều kiện tiếp cận dễ dàng hơn cũng như phạm vi bao quát cho biện pháp chủng ngừa. Trong thập kỉ tới, sẽ có thêm 1,5 tỷ liều vaccin được tiêm chủng bao gồm những mũi ngừa viêm gan B cho trẻ sơ sinh ở những vùng xa xôi. VVM còn giúp xác định những khâu thường bị vi phạm trong dây chuyển bảo quản lạnh do đó đóng góp đáng kể vào việc quản lý lưu trữ và vận chuyển vaccine.

“Một lợi thế mới mà trước đây không được công nhận của việc dùng VVM đã xuất hiện”, theo Dr Kartoglu, người đi tiên phong triển khai VVM và làm việc không mệt mỏi cho việc phổ biến nó trên toàn thế giới. “Ngày nay, VVM như là chất xúc tác cho những thay đổi cần thiết trong chiến lược phân phối vaccine bằng dây chuyền lạnh. Nó cho phép chương trình tiêm chủng khai thác tối đa sự ổn định và hiệu quả vaccine, cắt giảm chi phi phân phối và làm tăng tính linh hoạt trong quản lý”. Tất cả những điều này được hưởng lợi chỉ từ một mẩu nhãn dán nhỏ màu xám, thật là thú vị.

Cuối cùng, một lần nữa chúng ta lại tự hỏi về chất lượng của những loại thuốc mà chúng ta đang sử dụng và làm sao để kiểm tra được chất lượng nó? Hy vọng rằng sau khi đọc bài này thì bạn sẽ không đơn thuần chỉ dựa vào hạn dùng như trước đây nữa, đó là mong muốn của tôi!

contractpharma.com

jeudi 14 juillet 2011

Sự già hóa dân số - có cần thay đổi quan niệm?

Tuổi thọ của con người đã không ngừng tăng lên trong những năm gần đây, những người trên 60 tuổi trở nên ngày càng nhiều trong xã hội, có phải xã hội ngày nay đang già đi như thế? Hơn nữa, thế nào là tuổi già và khi nào thì chúng ta già đi?

Nếu trả lời rằng tuổi già bắt đầu ở ngưỡng 60, thì đúng là xã hội chúng ta đang già đi, đặc biệt là ở các nước phương Tây. Nhưng tại sao lại phải giới hạn ở 60 tuổi mà không phải là 65 hay 70? Con số định mệnh cho tuổi già này được công nhận vì nó tương ứng với tuổi nghỉ hưu của chúng ta, mà một trong những bộ luật đầu tiên qui định là luật Colbert ra đời tại Pháp năm 1673. Quan niệm đó dần dần trở thành thói quen và người ta không cần phải xem xét lại câu trả lời! Vậy đó có phải là một chỉ số bất biến và hữu ích cho tuổi già? Không, vì mọi thứ đã thay đổi kể từ thời của ông Colbert. Lúc đó, con người thường chỉ sống được trung bình ... 25 năm và 60 tuổi là một cột mốc chỉ có ít người đạt đến (18%). Ngày nay, ở tuổi 60, đàn ông có thể hy vọng sống thêm 22 năm và phụ nữ thì đến 27 năm nữa. Quả thực, 80% người về hưu hiện nay vẫn giữ được điều kiện thể lực khá tốt. Sự kéo dài đáng kể tuổi thọ đã khiến chúng ta phải đặt lại câu hỏi: khi nào thì chúng ta già?

Ngày nay, những người già đang trở nên trẻ trung hơn trước

Nước Pháp, với số lượng người làm công ăn lương trên 55 tuổi chỉ chiếm 37%, đã đứng sau các nước khác trong việc nhận ra giá trị của những công chức “lão làng”. Tại Nhật hay Thụy Điển, việc kéo dài các hoạt động đến tuổi 73 thậm chí 75 đã trở thành hiện thực. Tại Anh, hành động của cơ quan chính phủ “Age Positive” đã giúp tạo ra thêm nhiều việc làm cho người trên 60. Thậm chí ở Đức và Phần Lan, tuổi về hưu đã được kéo lên đến 68 tuổi. Các quốc gia này đã nhận ra rằng việc làm cho các nhân công lớn tuổi là cần thiết nhằm giải quyết vấn đề thiếu hụt về kinh nghiệm và kĩ năng, trong khi đó tại nhiều nước đang phát triển, người ta vẫn có xu hướng loại bỏ dần những người trên 55 tuổi ra khỏi biên chế, viện dẫn bởi các “lí do về tài chính”! Mặt khác, ngày nay chúng ta đã hiểu được rằng hoạt động tích cực sẽ giữ chúng ta không “già đi quá nhanh”. Người ta nghiên cứu thấy rằng việc thực hiện các hoạt động ngoại khóa sẽ trì hoãn được sự lão hóa của quá trình nhận thức thêm 3,23 năm, cũng như việc tập thể dục sẽ điều chỉnh được thêm 1,84 năm nữa.

Sống trẻ trung lâu dài hơn

Sự gia tăng của tuổi thọ kéo theo sự gia tăng của thời gian sống mà không bị suy giảm các chức năng (nghiêm trọng), một phần nhờ tiến bộ y học, nhưng cũng nhờ vào các tiến bộ công nghệ đã giúp giảm thiểu đáng kể những công việc tay chân. Thời gian sống khỏe mạnh, nghĩa là thời gian sống với khả năng tự chủ về bản thân và xã hội, là một tiêu chí quan trọng để xác định xem người đó đã già hay chưa. Vì vậy có thể nói chúng ta đang trẻ trung lâu hơn, và tuổi già do đó phải được định nghĩa lại và có tính đến độ tuổi khi xuất hiện những khuyết tật của bản thân. Ở tuổi 65, người ta vẫn còn trẻ, đàn ông khi đó trung bình sẽ sống được thêm 13,5 năm và phụ nữ thì 18 năm. Như vậy, có thể nói xã hội hiện đại ngày nay không thực sự quá già như nhiều người vẫn nghĩ!

pharmaceutiques.fr

lundi 11 juillet 2011

Phát triển hoạt động R&D nhắm vào các thị trường mới nổi

Từ việc quảng bá thuốc generic cho đến tập trung phát triển dược phẩm mới dành riêng cho bệnh nhân châu Á, chúng ta cùng tìm hiểu chiến lược mà những tập đoàn hàng đầu đang theo đuổi để bắt kịp nhu cầu về thuốc đối với các thị trường mới nổi.

Trong thập kỉ tới, châu Á được kì vọng sẽ vượt qua châu Âu về doanh số tiêu thụ thuốc, nhờ vào sự trỗi dậy của nhiều nước đang phát triển. Ví dụ, Trung Quốc được dự đoán sẽ là thị trường lớn thứ 2 sau Hoa Kỳ trước năm 2015. “85% dân số thế giới đang sống tại các nước đang lên, và trong suốt 5 năm qua, tăng trưởng kinh tế thực tế đều đến từ các thị trường này”, theo Patrick Keohame, phó chủ tịch bộ phận R&D của AstraZeneca khu vực Châu Á Thái Bình Dương cho biết.

Những con số như vậy giúp giải thích tại sao nhiều công ty dược đang muốn mở rộng hoạt động của mình tại các nước mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc, và nhiều nước khác như Ấn Độ, Brazil, Nga, Hàn Quốc và Mexico. Đáng chú ý, sự hiện diện ngày càng tăng này đang đi xa hơn việc chỉ hợp tác với các công ty nghiên cứu lâm sàng hay marketing các loại thuốc có sẵn, thay vào đó, các tập đoàn đang muốn xây dựng cả các hoạt động R&D nghiên cứu từ giai đoạn đầu các loại dược phẩm tiềm năng cho bệnh nhân ở các khu vực này.

Một nhu cầu về thuốc rất đa dạng

Để đáp ứng nhu cầu về thuốc ở thị trường đang phát triển là một nhiệm vụ rất phức tạp. "Bạn phải nhận thức được tháp nhu cầu, dù thực tế một vài người tại đây đủ khả năng chi trả cho các loại thuốc đắt tiền như ở Mỹ và châu Âu, vẫn có rất nhiều bệnh nhân đang phải sinh sống với khả năng tài chính thấp hơn đáng kể.” Sandy Macrae, phó chủ tịch bộ phận R&D của GlaxoSmithKline tại châu Á TBD cho biết. Thật vậy, tạo điều kiện hơn cho việc tiếp cận các thuốc đặc trị, phát triển các dạng phối hợp rẻ và tuân thủ chặt chẽ hơn những qui định sẽ giúp các tập đoàn mang lại lợi ích lớn cho phần đông dân số trong khu vực, đó cũng là một cách phát triển kinh doanh bền vững và lâu dài.

Đối với Lili Lee, người chịu trách nhiệm chính bộ phận R&D của Johnson & Johnson khu vực châu Á TBD, nghiên cứu về khả năng tài chính, mô hình bệnh tật và hệ thống chăm sóc y tế sẽ mang lại nhiều cơ hội cho các tập đoàn dược phẩm. “Các thị trường địa phương nhiều khi cũng rất khác nhau so với thị trường của một quốc gia, đối với một nước như Trung Quốc, sự khác biệt có thể tìm thấy như đặc điểm sinh học bệnh nhân, khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, chế độ bảo hiểm hay quy trình phê duyệt lưu hành thuốc, cũng như các đối thủ cạnh tranh địa phương”.

Những khía cạnh này phần nào được phản ánh bởi các loại sản phẩm chăm sóc y tế mà các công ty hàng đầu mong muốn phát triển tại các thị trường mới nổi. Chúng bao gồm 3 thể loại chính: vaccin (đối với những công ty có khả năng), thuốc genericthuốc vẫn còn bản quyền sáng chế. Quan trọng hơn, các công ty đang cố gắng giải quyết vấn đề chậm trễ giữa việc đăng ký bản quyền các thuốc mới ra đời ở thị trường mới nổi so với thị trường Mỹ và châu Âu.

Một trong những nỗ lực của chúng tôi là tăng tốc việc giới thiệu các thuốc mới phát minh trong danh mục đến mọi quốc gia trên thế giới”, Steven Yang, một lãnh đạo của Pfizer tại châu Á cho hay. Tương tự, tại AstraZeneca, họ vẫn liên tục đào tạo khả năng nghiên cứu lâm sàng và đăng ký thuốc cho các ê kíp ở Trung Quốc, nhằm mục đích đảm bảo rằng trong tương lai, các thuốc mới sẽ được tung ra thị trường này chỉ chậm 1-2 năm so với lần phát hành đầu tiên trên thế giới.

Một trong những cách giúp đảm bảo thuốc mới sẽ được cấp phép đúng thời hạn tại thị trường mới nổi là việc tuyển chọn bệnh nhân của những nước này vào các dự án nghiên cứu lâm sàng. Đối với các tập đoàn hàng đầu, việc làm đó là rất thường xuyên. Thêm vào đó, việc bao gồm các quốc gia đang phát triển sẽ giúp công ty dược tuyển chọn được đủ số lượng bệnh nhân cho việc tính toán tỷ lệ bệnh tật và tử vong trong các nghiên cứu rộng lớn, khi ngày nay các cơ quan chức năng đòi hỏi khắt khe hơn đặc biệt đối với các thuốc tim mạch và chuyển hóa. “Thực tế, tôi phải nói rằng những nghiên cứu lớn như vậy sẽ không thể nào thực hiện được nếu như không có sự đóng góp đáng kể từ Trung Quốc” Mundel, trưởng bộ phận phát triển toàn cầu của Novartis chia sẻ.

Giải quyết những căn bệnh liên quan đến lối sống

Bristol-Myers Squibb và AstraZeneca cũng đã phát hành thành công loại thuốc mới ức chế dipeptidyl peptidase 4 (DPP4) Saxagliptin (Onglyza) trong điều trị tiểu đường tại thị trường Ấn Độ vào ngày 1/4/2011, chỉ 1 năm sau khi thuốc này được FDA chấp thuận lưu hành tại thị trường Mỹ (7/2009).

Những căn bệnh như tiểu đường đã trở nên ngày càng phổ biến tại Ấn Độ và Trung Quốc, đặc biệt là các biến chứng của nó lên bệnh nhân đang gia tăng. Ví dụ, một nghiên cứu dịch tễ từ 6/2007 đến 5/2008 đã báo cáo rằng 9,7% người trưởng thành ở Trung Quốc mắc bệnh đái tháo đường và 15,5% bị tiền đái tháo đường, so với con số tương ứng là 2,4% và 3,2% trong một nghiên cứu tương tự vào năm 1994.

Sự gia tăng nhóm đối tượng mắc bệnh được cho là bởi vì tuổi thọ con người tăng lên, cũng như thói quen sinh hoạt thay đổi khi điều kiện kinh tế đã trở nên khá giả. Với số lượng người bị tiểu đường lên đến hàng chục triệu và hàng trăm triệu người có nguy cơ cao, Trung Quốc là thị trường đầy hứa hẹn đối với các thuốc điều trị tiểu đường thế hệ mới như Januvia [sigtaliptine – MSD]. Ngoài ra, Trung Quốc còn có trên 100 triệu người bị cao huyết áp, 62% đàn ông hút thuốc dẫn đến tỷ lệ ung thư phổi thuộc hàng cao nhất thế giới.

Ấn Độ cũng có bối cảnh tương tự. “Đến năm 2025, sẽ có gần 190 triệu người Ấn trên 60 tuổi, đó là nhóm đối tượng thường bị béo phì, nguy cơ cao mắc các bệnh như tim mạch và huyết áp. Vì vậy sẽ là rất quan trọng nếu chúng ta chú trọng phát triển dược phẩm ở quốc gia này, kèm theo tinh toán đến chi phí và khả năng tiếp cận của bệnh nhân,” Macrae cho biết.

Thay đổi trọng tâm R&D

Cùng với việc tăng tốc giới thiệu các thuốc mới như thuốc tiểu đường tại châu Á, người ta cũng gia tăng nỗ lực trong việc nghiên cứu nhiều loại bệnh phổ biến trong khu vực hơn so với tại Mỹ và châu Âu. “Thay vì cố tìm ra nhu cầu dùng các loại thuốc đã được phát triển cho các quần thể không-phải-châu-Á, xu hướng mới hiện nay là khám phá, phát triển các loại dược phẩm dành riêng cho nhóm đối tượng này”, một đại diện của GSK cho biết.

Ung thư là một lĩnh vực điều trị mà nhiều tập đoàn đang tích cực theo đuổi chiến lược để đạt hiểu biết thêm về bệnh nhân châu Á và phát triển các liệu pháp thích hợp cho đối tượng này. Một phần, bởi vì các bệnh như ung thư gan (do virus B và C), ung thư dạ dày hay ung thư đầu, cổ chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn tại Á châu. Thêm vào đó, các dấu ấn di truyền đặc trưng cho các quần thể bệnh nhân đã được chứng minh là có giá trị cao trong việc xác định bệnh nhân nào phù hợp với các liệu pháp điều trị tương ứng. Ví dụ như gefitinib (Iressa; AstraZeneca), một thuốc phân tử nhỏ ức chế thụ thể các tác nhân tăng trưởng biểu bì (EGFR) kinase, tỏ ra hiệu quả hơn trên các bệnh nhân bị ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn bị đột biến gien EGFR. Loại đột biến này lại xuất hiện nhiều trên bệnh nhân châu Á.

Năm 2007, AstraZeneca đã khánh thành Liên minh chiến lược châu Á về ung thư (Asia oncology Strategic Alliance) nhằm mục đích đánh giá các phương pháp điều trị mới cho ung thư dạ dày và ung thư gan. "Chúng tôi tập trung vào Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore bởi vì các chính phủ ở đó ưu tiên cho điều trị ung thư" Keohane giải thích. một ví dụ về sự hợp tác thông qua liên minh này là bệnh viện đa khoa Quảng Đông, nơi được AZ xem là một đối tác mạnh cho việc phát triển các phân tử chữa ung thư phổi, gan, dạ dày và thực quản. Bệnh viện cung cấp các bác sĩ chuyên khoa, phòng thí nghiệm, các xét nghiệm tế bào khối u, còn AZ cung cấp kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn trong việc phát triển các thuốc ung thư và tài trợ cho nhiều nghiên cứu. “Chúng tôi đã thành công trong việc xây dựng mô hình bệnh tật cho các ung thư dạ dày, gan... và chúng sẽ giúp mở đường cho các phương pháp điều trị mới”. Ngoài ra, AZ và nhiều công ty khác như Lilly, J&J đang xây dựng nhiều trung tâm để nghiên cứu các đặc điểm về di truyền và các dấu ấn sinh học đặc trưng của người Trung Quốc. Mục tiêu của họ là thu thập một lượng lớn mẫu bệnh ung thư kết hợp với các dữ liệu lâm sàng liên quan để tạo ra dữ liệu di truyền chuyên sâu về chúng. Một khi các dữ liệu đã được thu thập đầy đủ và giám định, chúng sẽ được công khai cho công chúng. Việc sử dụng các dữ liệu này sẽ tùy thuộc vào nhu cầu của cộng đồng – các trường đại học, chính phủ, công ty công nghệ sinh học hay tập đoàn dược... “Chúng ta cần thay đổi sự chú ý, đặc biệt trong lĩnh vực về dấu ấn sinh học, nhằm mục đích hiểu rõ hơn những loại thuốc mà chúng ta đang làm, những gì chúng ta cho là quan trọng để giải quyết tận gốc những căn bệnh, và liệu nó có phù hợp với bệnh nhân châu á hay không”.

nature.com